Làm báo thời MS-DOS(In Memory of Alex McKinnon)Mới hôm rồi tình cờ thấy một bàn máy đánh chữ cũ kỹ nằm ở góc phòng khách nhà người quen, ký ức về những ngày làm báo cách đây hơn 20 năm lại quay về. Tháng 9-1991, tôi vào làm cho tờ Vietnam Investment Review (VIR) khi tờ báo này chuẩn bị ra mắt số đầu tiên. Đây là tờ tuần báo bằng tiếng Anh chuyên về kinh tế đầu tiên của Việt Nam do Ủy ban Nhà nước về hợp tác và đầu tư cùng một số nhà báo người Úc thực hiện. Còn chừng ba tuần nữa là đến ngày ra báo thế mà các tay nhà báo Úc nhởn nhơ như không. Nick Mountstephen rủ tôi ra Lê Lợi mua đồ nghề. Loay hoay một hồi chúng tôi chở về chừng bốn chiếc bàn máy chữ loại xài rồi.
Các bạn phóng viên trẻ giờ này chắc không hình dung nổi, đến thập niên 1990 rồi mà nhà báo vẫn phải viết tay là chủ yếu, ai dùng bàn máy chữ để viết tin là đã “tân tiến” lắm rồi. Mua máy chữ hôm trước, hôm sau chúng tôi lại phải ra nhà sách mua đủ loại bút xóa để “tẩy tẩy, xóa xóa” chứ không lẽ cứ gõ vài dòng là quẳng vào thùng rác, thay giấy khác.
Trong tòa soạn lúc ấy có anh Hoàng Ngọc Nguyên, là cây bút chủ lực của VIR trong những ngày đầu nhưng vẫn giữ vai trò người xuất bản tờ Saigon News Reader bán chạy trong giới đầu tư nước ngoài ở Sài Gòn dạo đó. Anh Nguyên là “phù thủy” trong sử dụng bàn máy chữ để “sản xuất” tờ báo này - một mình anh vừa làm phóng viên, biên dịch viên, người dàn trang, người gõ bài - tất cả thực hiện trên bàn máy chữ. Cái tài của ảnh là làm sao canh chừng để tin chấm dứt đúng cột, đúng khuôn khổ. Thậm chí vì tờ báo chỉ bằng khổ giấy A4 nhưng cũng chia thành hai cột, anh vừa gõ tin của cột này, vừa gõ tin của cột bên kia! Sản xuất xong tờ báo (thường là buổi sáng, dịch tổng hợp mọi tin kinh tế chính của báo trong nước), anh cho người photocopy thành mấy trăm bản và phân phối đến các văn phòng đại diện các công ty nước ngoài khắp thành phố. Bảo đảm giờ có đủ phương tiện trong tay, kể cả phần mềm dàn trang trên máy tính, khó lòng kiếm ra người có thể làm ra tờ báo trong vòng mấy tiếng đồng hồ như anh Nguyên.
VIR cũng là nơi đầu tiên mua tin các hãng thông tấn nước ngoài, tôi nhớ hình như mua tin của AFP trước tiên. Lúc đó vì chưa có máy tính, chỉ có máy fax, thế là tin từ AFP liên tục đổ về, chạy ra ào ào từng cuộn giấy. Lúc đầu tôi hăm hở đọc hết vì chưa bao giờ có dịp tiếp cận tin nhiều và nóng hổi như thế nhưng chỉ một thời gian ngắn sau là đầu hàng không kham nổi.
Chất liệu đầu vào là tin bài đánh máy hay nhận bằng fax nên khi đưa xuống nhà in, nhân viên phòng máy phải gõ vào một lần nữa. Nhiệm vụ của bọn tôi là ngồi bên cạnh để sửa lỗi vì nhân viên đâu rành tiếng Anh, gõ sai là chuyện thường. Nhưng cũng nhờ thế bọn tôi tiếp xúc rất sớm với máy tính, dù chỉ là gõ văn bản.
Cũng may là một thời gian ngắn sau, các tay nhà báo người Úc không biết kiếm đâu ra được mấy máy vi tính đời 286 và 386, màn hình đơn sắc, có cái không có ổ cứng. Muốn khởi động, trước tiên phải bỏ vào ổ đĩa mềm loại 5,25 inch đĩa chương trình MS-DOS để chạy. Máy chạy rồi mới lấy đĩa ra, bỏ đĩa chương trình Word Perfect vào. Lúc đó Microsoft Word chưa thịnh hành, ai nấy đều dùng Word Perfect 5.1. Cũng chẳng ai bày, tôi mày mò bấm F1 (chương trình giúp đỡ) và tự học các phím tắt để sử dụng phần mềm này viết bài. Các bạn trẻ ngày nay ắt cũng khó hình dung màn hình máy tính lúc đó không phải ở dạng “What you see is what you get” như hôm nay, nó chỉ là một màn hình đen hay xanh với con trỏ là dấu gạch ngang nhấp nháy. Phải học thuộc các lệnh để trình bày và xử lý văn bản. Tính toán thì có Lotus 1-2-3 chứ chưa có Excel, cơ sở dữ liệu thì dùng dBase chứ đâu đã có Access.
Trưa, lúc mọi người chợp mắt, tôi tò mò mở máy ra “vọc”, cứ thử hết file exe này đến file com khác. Nhiều lúc chỉ gõ lệnh cls để khoái trá thấy màn hình dọn sạch trơn. Thấy file command.com “không dùng làm gì cả”, bèn xóa (đây là file chủ chốt của hệ điều hành MS-DOS), tiện tay xóa luôn các file autoexec.bat và config.sys vì cứ nghĩ để chúng làm gì cho chật chội. Dại dột đến thế, may nhờ có các anh kỹ thuật viên dưới phòng máy nhà in lên phục hồi giùm.
Có nhiều chuyện cười ra nước mắt như thế - chẳng hạn một sếp VIR một hôm kêu ầm lên là máy hỏng, kỹ thuật phải vào sửa gấp. Hóa ra hôm trước ổng nhét ổ đĩa mềm vào, viết bài và cuối ngày tắt máy quên lấy đĩa ra. Khi mở máy trở lại vì ổ đĩa mềm chỉ chứa dữ liệu chứ không phải ổ đĩa khởi động nên máy đứng cứng ngắc, làm sao chạy được. Lúc đó máy tính là một cái gì đó người ta phải đối xử như “nâng trứng, hứng hoa”; ai cũng nghĩ phải xây phòng riêng, lắp máy lạnh máy mới chạy! Ngày nay khi ổ cứng máy tính chừng 500GB, RAM 4GB, tốc độ xử lý trên 2GHz là chuyện thường có lẽ ít ai ngờ có thời máy tính chỉ có ổ cứng 30MB, tốc độ xử lý chỉ có 6MHz, còn RAM bao nhiêu thì chẳng ai biết nữa.
Nhờ có máy tính, công đoạn nhờ nhân viên nhà in gõ lại coi như không cần thiết nữa nhưng tôi và Alex McKinnon, một nhà báo Úc rất trẻ, vẫn phải thường xuyên xuống nhà in để theo dõi nhân viên dàn trang. Lúc đó phần mềm dàn trang phổ biến là Ventura, chạy chậm như rùa. Báo chí Việt Nam đã chuyển từ sắp chữ chì sang dàn trang trên máy tính nhưng tít vẫn phải vẽ tay và co chữ, font chữ thì rất linh hoạt, bài dư một chút thì bung ra, thiếu một chút thì co lại, bất kể nguyên tắc trình bày báo. Tờ VIR với những nguyên tắc không thể du di phải cử người xuống phòng máy để hỗ trợ nhân viên dàn trang cắt tin bài hay chọn bài khác cho vừa chỗ chứ không co dãn cỡ chữ. Cũng nhờ vậy mà học sơ qua Ventura rồi sau này là PageMaker và QuarkXPress.
Những năm đó, công nghệ thông tin có những bước tiến nhảy vọt, máy tính lên đời 386, 486 và cuối cùng Windows 3.1 ra đời. Một điều lạ là máy mạnh lên nhưng phần mềm ngày càng nặng nề nên cứ phải nâng cấp phần cứng liên tục. Tôi nghĩ cả thế giới trong một thời gian dài làm ra bao nhiêu là đổ tiền cho Bill Gates và các hãng phần cứng, chẳng lạ gì anh chàng này trở thành tỉ phú trong một thời gian ngắn. Còn nhớ đó là thời gian vàng son của máy PC, cứ vài tháng là có con chip mới, cuộc đua tốc độ xử lý cứ mải miết chạy, đến mấy năm gần đây mới tạm dừng.
Có lẽ cũng vì lần đầu tiên tiếp xúc với công nghệ, giới làm báo lúc đó có sự tò mò, thích tìm tòi ứng dụng công nghệ vào công việc mà dường như thiếu vắng trong giới phóng viên trẻ ngày nay. Tôi nhớ lúc đó một chuyên viên kỹ thuật người Úc đang xây dựng cơ sở dữ liệu cho toàn bộ các số báo VIR vào một đĩa CD, truy xuất dễ dàng. Lúc rảnh rỗi anh này giúp bọn tôi viết các macro để tự động hóa các khâu biên tập. Các bạn biên tập viên đều biết bài nhận từ nhiều nguồn sẽ có nhiều cách viết khác nhau nên việc đầu tiên là chuyển hết về phong cách mà tờ báo đang áp dụng. Anh thu gom hết mọi biến thể, mọi sửa đổi mà các biên tập viên chỉnh sửa bài vào thành một macro (tập hợp các lệnh thực hiện tự động) chạy ngay trong MS Word. Biên tập viên nhận bài, chỉ cần bấm một nút, ngay lập tức máy sẽ tự động rà soát biên tập kỹ thuật cho mình - rất nhanh và rất tiện.
VIR in được hai số ở TPHCM thì phải chuyển ra in ngoài Hà Nội. Nick, Alex và tôi khăn gói ra thủ đô, hành lý lúc đó chỉ là cây thước để vẽ ma két báo. Mọi chuyện lặp lại với nhà in báo Hà Nội mới. Mấy tháng sau, bộ máy tạm ổn, tôi quay về TPHCM thì nảy sinh việc liên lạc bài vở giữa hai đầu đất nước. Một thời gian dài chúng tôi phải dùng fax, lại phải quay về cách nhờ nhân viên phòng máy gõ lại bài đã gõ trong Sài Gòn. Sau một thời gian mày mò, bọn tôi mua hai cái modem, nối với đường dây điện thoại. Cách làm thật thủ công, bây giờ ai nhìn vào ắt phải cười ngất. Sau khi thu gom chừng năm bài từ văn phòng TPHCM, tôi gọi điện cho Lê Quốc Vinh, phóng viên ngoài Hà Nội, hai bên cùng mở modem lên và quy ước, “một, hai, ba” cùng nhấn enter để đường dây thoại chuyển thành đường dây data, hai modem sau một hồi rè rè, rít rít đã bắt tay được với nhau và hai máy mới bắt đầu chuyển bài cho nhau. Thủ công là vậy nhưng “phát hiện” này giúp tiết kiệm cả đống thời giờ gõ lại bài cũng như tránh sai sót chính tả.
Tiếp theo đó là sự xuất hiện dịch vụ thư điện tử (e-mail). Thoạt tiên chỉ có Netnam (anh Trần Bá Thái) và Teltic (anh Nguyễn Anh Tuấn) cung cấp, mỗi ngày hai nơi này nối mạng với máy chủ ở Úc mấy lần để nhận thư và gửi thư. Tôi nhớ lúc đó anh Nguyễn Anh Tuấn, sau này làm Tổng biên tập tờ VietNamNet có vào Sài Gòn chơi và cho tôi một tài khoản e-mail. Từng cá nhân mỗi khi muốn nhận thư cũng phải truy cập một số điện thoại nào đó, modem cũng rít lên từng hồi trước khi kết nối vào được mạng máy chủ.
Tuy nhiên, e-mail là bước tiến làm thay đổi công nghệ làm báo mạnh mẽ (nên nhớ lúc đó chưa có Internet). Bọn tôi học được nhiều thủ thuật sử dụng e-mail mà nay hóa ra thừa thãi. Ví dụ mặc dù chưa có Internet, vẫn có thể lấy được tin bài từ một trang web bằng cách gửi e-mail đến một địa chỉ nào đó, trong tiêu đề ghi một dòng lệnh nào đó. Nhờ e-mail, nhà báo nay đã có thể gửi thư phỏng vấn người ở tuốt bên Mỹ hay bên Anh. Nhờ e-mail việc gửi bài thủ công theo kiểu “một, hai, ba” chúng ta cùng bấm enter đã biến mất.
Sau này cũng có nhiều công nghệ khác biến mất như thế. Chẳng hạn trong một thời gian dài, mặc dù đã dàn trang trên máy tính, vẫn phải in ra trên giấy can và nhân viên nhà in vẫn phải cắt dán thủ công toàn bộ tờ báo lên bảng súp-po. Sau này nhà in chuyển thẳng từ file nên nghề cắt dán (montage) này đã mai một. Nhớ khoảng năm 1989, tôi có dịp đưa một nhà báo nước ngoài đi chụp ảnh ở Huế. Lúc đó đám cưới chụp một hai cuốn phim màu là sang lắm rồi nên các bạn tưởng tượng tôi đã há hốc như thế nào khi anh chàng phóng viên ảnh này chơi một ngày hết 40 cuốn phim, loại 36 tấm mỗi cuộn. Nay máy kỹ thuật số chụp bao nhiêu không ai để ý và có lẽ mọi người cũng dần quên cuộn phim Kodak ngày xưa.
Năm 1997 lúc tôi chuyển về làm cho tờ Saigon Times Daily, công nghệ đã khá phổ biến. Chúng tôi mua tin của Reuters và truy cập tin bằng đường dây riêng. Lúc đó Reuters có gói dịch vụ Business Briefing thật tuyệt vì ngoài tin của Reuters người dùng có thể truy cập mấy ngàn tờ báo khắp thế giới, tin tức nóng hổi. Nay có Internet thì chuyện đọc báo khắp nơi là chuyện bình thường nhưng lúc đó, cứ tưởng tượng ngồi ở Sài Gòn mà có thể nhảy vào đọc tờ Time hay Washington Post mới phát hành là chuyện khó hình dung. Bọn tôi lúc đó cũng ăn gian, ví dụ đưa tin về hội nghị thượng đỉnh ASEAN ăn đứt báo bạn vì tiếp cận và tham khảo đủ loại tin bài mà phóng viên báo khác đưa lên mạng Business Briefing.
Cuối năm 1997, Việt Nam chính thức kết nối Internet. Ngay năm sau đó chúng tôi tổ chức cuộc thi thiết kế trang web trên tờ Saigon Times Daily mặc dù không biết gì nhiều về thiết kế web. Giám khảo là những nhân vật tin học nổi tiếng lúc đó như anh Hoàng Minh Châu của FPT, chị Đồng Thị Bích Thủy (Đại học Khoa học Tự nhiên) và hãng IBM đồng ý tài trợ giải thưởng cuộc thi là máy tính xách tay IBM, lúc đó có giá chừng 3.000 đô la! IBM còn cho mượn máy mạnh để giám khảo sử dụng chấm bài cho nhanh nữa. Bên cạnh nhiều thí sinh dùng màu sắc lòe loẹt, chữ chớp chớp, uốn lượn... vẫn có những người thiết kế các trang web đơn giản mà lại đẹp và sang trọng. Có lẽ nhiều bạn thí sinh thời đó đã theo nghề thiết kế web cho đến nay. Chẳng bao lâu sau hàng ngàn trang web Việt Nam lần lượt xuất hiện.
Nhìn lại, hoàn toàn không có gì tiếc khi phải bỏ công sức học nhiều lệnh trong DOS mà nay có ai xài nữa đâu, cũng không có gì ganh tỵ khi ngày xưa phải chật vật với ổ đĩa 1,2MB thường xuyên bị hỏng hóc so với các thanh USB vài ba GB mà phóng viên nào ngày nay đều phải có. Lúc đó để cài Microsoft Word phiên bản mới nhiều lúc cần đến 8, 9 đĩa mềm, mà có lúc cài đến đĩa số 7 nó lại báo hư mới tức. Chặng đường làm quen với công nghệ là một phần của nghề báo thời mở cửa - không thể đổi cho bất kỳ món gì - dù đó là chiếc kính Google Glass hay nắm xôi của thằng Bờm.