Saturday, June 22, 2013

Khi “room” không phải là “room”

Khi “room” không phải là “room”

Không biết từ đâu trong kho từ vựng tài chính – chứng khoán của Việt Nam có thêm từ “room” được dùng theo nghĩa “tỷ lệ sở hữu cổ phiếu tối đa (đặc biệt của các công ty niêm yết) [dành cho nhà đầu tư nước ngoài]”. Các câu như “Tháng tới sẽ đề xuất Chính phủ nâng room cho khối ngoại”, “Nới room  ngân hàng cho khối ngoại”… xuất hiện thường xuyên trên báo chí chính thống, thậm chí trong phát biểu của các quan chức nữa.

Trong khi đó, thuật ngữ tài chính – chứng khoán nước ngoài không có chữ “room” dùng theo nghĩa này. Các hãng tin khi tường thuật cùng nội dung như báo trong nước họ dùng từ theo cách bình thường như “foreign ownership limit”, “ceiling ownership for foreign investors”…

Có lẽ ban đầu người ta dùng từ “room” theo kiểu tiếng Anh giao tiếp (chỗ, còn chỗ) (There is no more room for foreign investors in that company), rồi quen miệng nói qua tiếng Việt luôn. Biết đâu lâu ngày tiếng Anh lại chấp nhận từ này theo nghĩa mới!!! Chỉ có điều khi chuyện đó chưa xảy ra, khi nói bằng tiếng Anh, đừng dùng từ “room” theo nghĩa nói trên kẻo người ta không hiểu gì hết.

*                      *                      *

Xin kể thêm một số từ tiếng Anh và tiếng Việt nhìn qua tưởng tương đương trong khi thực tế trái nghĩa nhau rất dễ gây hiểu nhầm.

- Từ “xã hội hóa” mà dịch thành “socialization” nghe hay quá gì nữa? Nhưng thực tế hai từ này có nghĩa khác nhau xa. “Xã hội hóa” trong tiếng Việt có nghĩa mở cửa những lãnh vực trước đây chủ yếu của nhà nước lo, nay mời tư nhân hay tổ chức khác tham gia. Chẳng hạn khi nói xã hội hóa các hoạt động y tế, có nghĩa cho phép mở phòng khám tư, bệnh viện tư, cho tư nhân tham gia đầu tư mua sắm máy móc để cùng kinh doanh… Xã hội hóa còn hàm nghĩa… thu tiền chứ không miễn phí như xưa!

“Socialization” trong tiếng Anh lại có nghĩa một quá trình cá nhân tương tác với xã hội, tiếp thu các chuẩn mực, giá trị của xã hội để sống với người khác như một thành viên xã hội. Ngoài ra, còn có từ “socialized medicine” lại có nghĩa chính phủ can thiệp điều hành hệ thống y tế để có thể chăm sóc cho tất cả người dân bằng tiền thuế (cho nên hàm ý ngược lại nghĩa của từ tiếng Việt).

- Từ “thương mại hóa” trong tiếng Việt thường hàm ý chê bai, như “thương mại hóa” giáo dục, “thương mại hóa” báo chí. Ý muốn nói đây là những lãnh vực lẽ ra là phi lợi nhuận, không nên dùng làm phương tiện để làm giàu, kiếm lợi nhuận nhưng đã bị “thương mại hóa”. Trong khi đó, “commercialization” trong tiếng Anh chỉ là quá trình đưa một sản phẩm hay một phương pháp sản xuất vào kinh doanh. Ví dụ một người làm ra cái máy cắt cỏ nhỏ gọn, nay tìm đối tác có vốn để cùng nhau “thương mại hóa” sản phẩm.

- Như một post trước tôi có nói sơ qua, hóa ra “criminalization” không phải là hình sự hóa theo kiểu chúng ta thường hiểu; nó chỉ là quá trình định danh một tội phạm vào luật hình sự đi kèm là mức phạt tù hay tiền… Ví dụ, trước đây Việt Nam chưa có thị trường chứng khoán nên Bộ luật Hình sự 1999 đâu có các tội như giao dịch nội gián, thao túng giá chứng khoán. Nay xuất phát từ thực tiễn, nhà làm luật quy định (tức hình sự hóa) những hành vi như thế này liên quan đến thị trường chứng khoán là phạm tội hình sự “sử dụng thông tin nội bộ để mua bán chứng khoán”, mức phạt như thế kia… (Sửa đổi, bổ sung năm 2009). Cho nên “hình sự hóa” không mang ý nghĩa tiêu cực.

Trong tiếng Việt, cũng có hai cách hiểu nhưng cách hiểu “hình sự hóa” theo nghĩa lạm dụng pháp luật hình sự để giải quyết các quan hệ pháp luật hành chính, kinh tế, dân sự phổ biến hơn. Khi dịch cũng cần chú ý đến yếu tố này để khỏi dịch sai.

- Từ “propaganda” trong tiếng Anh hàm ý xấu, theo kiểu dùng những thủ thuật như lập đi lập lại, chọn lọc thông tin,  để tác động lên dư luận theo hướng mong muốn. Tuyên truyền dù sao cũng mang nghĩa trung tính. Nhưng một điểm thú vị là “Học viện báo chí và tuyên truyền” khi tự dịch tên mình sang tiếng Anh đã chọn “Academy of Journalism & Communication” chứ không dùng từ propaganda.

Còn khá nhiều từ nữa, có ai biết thì chia sẻ.

Bổ sung: Bác Giang Lê bổ sung cặp từ “budget deficit-bội chi ngân sách”.
Cái này phải nói lại từ đầu cho dễ theo dõi. Thu ngân sách dự trù 100 đồng nay chỉ thu được 90 đồng thì người ta gọi là “thâm hụt ngân sách”.
Thu 100 đồng mà chi đến 110 đồng thì người ta gọi là “bội chi ngân sách”. Vì vậy hai từ “thâm hụt ngân sách” và “bội chi ngân sách” là khác nhau. Ví dụ câu này: “Vì sao năm 2009 không thâm hụt ngân sách mà bội chi vẫn ở mức cao: 6,9%?”.
Trong khi đó “budget deficit” là chi nhiều hơn thu; “budget surplus” là thu nhiều hơn chi.
Vì thế dịch “budget deficit” là phải dùng cụm từ “bội chi ngân sách” chứ không phải là “thâm hụt ngân sách”.
Khổ nỗi những sách báo, tài liệu nào có dính một xíu đến nước ngoài như các nghiên cứu của các tổ chức tài chính quốc tế hay các bài dịch các tài liệu này hay các công trình có các tổ chức này tài trợ thì người ta dùng “thâm hụt ngân sách” theo nghĩa “budget deficit”. Như câu: “Thâm hụt ngân sách của Việt Nam cao nhất khu vực”… Thế mới gọi là mớ bòng bong từ ngữ tài chính ở Việt Nam.






Cryptocurrency

  Phép thử tiền crypto   Không biết hãng Finder khảo sát ở đâu, với ai mà kết luận đến 41% dân Việt Nam có sở hữu tiền mã hóa (cryptocur...