Friday, July 5, 2024

AI - hype and reality

 AI – cường điệu và thực tế

Nguyễn Vạn Phú

Bạn đôi lúc có cảm giác hơi hơi mặc cảm vì chung quanh đọc đâu cũng thấy bàn về AI (trí tuệ nhân tạo), về các chatbot thông minh trong khi mình chưa bao giờ dùng nó vào công việc, ngay cả đối đáp thì chỉ thử vài ba lần rồi thôi. Xin đừng quá tự ti, một nghiên cứu của Reuters Institute và đại học Oxford, khảo sát hơn 12.000 người ở 6 nước cho thấy một điều tương tự - chỉ có 7% ở Mỹ và 2% ở Anh, Pháp, 1% ở Nhật nói họ sử dụng các công cụ AI tạo sinh hàng ngày; đa số chỉ xài một hai lần cho biết. Nghiên cứu cũng cho thấy một tỷ lệ lớn người được khảo sát (47% ở Mỹ và 42% ở Anh) chưa hề nghe nói đến ChatGPT; tỷ lệ này còn cao hơn ở các AI tạo sinh khác như Gemini của Google, hay Copilot của Microsoft.

AI cho từng người

Vì sao thế giới hay ít ra trên mặt báo cứ xôn xao chuyện AI mà thực tế ít người dùng như thế? Đó là bởi đứng trước màn hình ChatGPT thiệt tình không biết hỏi gì luôn. Có lẽ ai cũng thử hỏi các câu mang tính kiểm tra kiến thức xem nó có thông minh thật không. Cách chúng trả lời gây ấn tượng cho nhiều người nhưng cũng có thể gây thất vọng ở nhiều người khác bởi trước sau gì cũng bắt gặp nó trả lời sai,            nhiều cái sai rất vớ vẩn. Từ đó ấn tượng của người dùng là ChatGPT quá giỏi, quá tài nhưng không tin được, dùng để giải trí thì được còn dùng nó để giải quyết các vấn đề vướng mắc thật sự thì chưa.

Điều này cũng giải thích các bài viết cứ chỏi nhau về AI: một bên nói nó sẽ lấy đi nhiều công ăn việc làm, sẽ đẩy hàng triệu người vào chỗ thất nghiệp; một bên nói còn lâu, tất cả chỉ là sự cường điệu hóa của một số doanh nghiệp đánh cược vào AI. Ở đây có lẽ nên phân biệt hai loại góc nhìn, phân tích, đánh giá, đo lường tiềm năng của các công cụ AI nhìn từ góc độ cá nhân và từ góc độ chung cho cả nền kinh tế.

Ở góc độ cá nhân, nếu vượt qua được giai đoạn xài thử cho biết, không còn dè chừng ChatGPT như một trợ lý thông minh nhưng không đáng tin, chúng ta có thể biến nó thành công cụ hỗ trợ công việc rất có ích. Lấy ví dụ công việc bếp núc của tòa soạn một tờ báo, là chuyện chuyên môn của người viết bài này, giả thử một phóng viên ngày mai có cái hẹn phỏng vấn một nhân vật quan trọng, bình thường phóng viên sẽ gặp trưởng ban hay thư ký tòa soạn để được hướng dẫn nên hỏi gì, hướng câu chuyện phỏng vấn vào những đề tài nào… Nay với ChatGPT người phóng viên có thể hỏi ngay công cụ AI này, miễn sao cứ cung cấp càng nhiều chi tiết càng tốt như chức vụ người được phỏng vấn, lãnh vực chuyên môn, đề tài đang quan tâm, thông tin nền… Bảo đảm câu trả lời chi tiết của ChatGPT cùng với hàng loạt câu hỏi phỏng vấn nó gợi ý sẽ gây ngạc nhiên cho nhiều người.

Các cuộc họp giao ban tin vào mỗi buổi sáng thường là cơn ác mộng với nhiều phóng viên vì không tìm ra đầu tin để báo. ChatGPT có thể gợi ý đề tài, hay cứ cung cấp cho nó các mảng thời sự chính rồi nhờ nó chỉ ra các đề tài để viết tiếp (follow-up). Trong các buổi động não chung ở tòa soạn, nó sẽ là trợ lý đắc lực đưa ra các ý tưởng mới cho mọi người thảo luận. ChatGPT và các công cụ AI tạo sinh tương tự nay đã có thể phân tích sâu một báo cáo tài chính, tóm tắt một tài liệu dài, nêu những điểm chính của một văn bản vừa ban hành. Chúng có thể giúp phóng viên tạo ra các biểu bảng, đồ họa, thậm chí cả hình minh họa nữa.

Đây chỉ là một minh họa cho việc sử dụng AI tạo sinh như các công cụ hỗ trợ hữu ích trong nghề báo; mọi nghề khác đều có thể tìm thấy các ứng dụng tương tự, từ dịch thuật đến tóm tắt văn bản, từ viết kế hoạch marketing đến viết đơn xin việc. Chúng không thể thay thế hoàn toàn con người nhưng sẽ là cánh tay nối dài đắc lực cho những ai biết cách sử dụng chúng. Chí ít chúng cũng giúp chúng ta giải thích các khái niệm mới lạ, một câu tiếng nước ngoài chưa biết, một tít báo khó hiểu – tất cả có sẵn trong lòng bàn tay.

AI cho cả nền kinh tế

Ở góc nhìn toàn bộ nền kinh tế, tác động của AI, cho dù được khuếch trương bằng cả ngàn bài viết, là chưa đến đâu cả. Cái làm nên sôi động của lãnh vực AI chính là giá cổ phiếu của các công ty liên quan đang tăng mạnh, như hãng Nvidia, chuyên sản xuất chip dùng trong AI, giá cổ phiếu liên tục tăng không ngừng nghỉ, giúp giá trị vốn hóa công ty này đến tháng 6-2024 vượt qua Microsoft, Apple, trở thành công ty lớn nhất thế giới ở mức giá trên 3.300 tỷ đô-la.

Ngược lại, sau cơn sốt đầu tư vào AI như một xu hướng thời thượng, các công ty mới vỡ lẽ, cuộc chơi AI rất tốn kém nhưng hiệu quả chưa thấy đâu cả. Theo Bloomberg, tỷ lệ các công ty có kế hoạch tăng mức đầu tư vào AI trong 12 tháng tới đã giảm từ mốc rất cao 93% cách đây một năm nay chỉ còn 63%. Trong khi đó, theo Cục Thống kê Mỹ, chỉ có 5% công ty Mỹ có sử dụng AI. Trong bình diện từng công ty, có thể từng cá nhân các nhân viên mày mò tìm cách sử dụng AI để nâng hiệu suất công việc nhưng cả công ty ứng dụng AI để cải tiến sản phẩm hay dịch vụ thì chưa thông suốt.

Philipp Carlsson-Szlezak, nhà kinh tế trưởng của Boston Consulting Group nhận định: “Với tôi, đây là câu chuyện năm năm nữa, chứ không phải năm quý”. Ý ông muốn nói phải chừng năm năm nữa mới chứng kiến được sự thay đổi trong hoạt động của doanh nghiệp dưới tác động của AI. Trở lại câu chuyện một tòa soạn để minh họa ứng dụng AI, từng phóng viên, từng thư ký tòa soạn có thể sử dụng AI để hỗ trợ cho công việc. Còn nói tờ báo dùng AI để thay phóng viên viết tin bài thì còn lâu.

Nhà kinh tế MIT nổi tiếng Daron Acemoglu viết trên tờ Project Syndicate bài “Đừng tin vào sự cường điệu AI” với câu mở đầu: “Nếu bạn lắng nghe các lãnh đạo công nghệ, các nhà dự báo kinh doanh và hầu hết báo chí, bạn có thể sẽ tin rằng các bước tiến gần đây của AI tạo sinh sẽ sớm đem lại các lợi ích năng suất to lớn, cách mạng hóa cuộc sống của chúng ta bây giờ. Tuy nhiên lý thuyết kinh tế cũng như dữ liệu không ủng hộ lời dự báo hồ hởi này”.

Bàn về tác động lâu dài của AI, có lẽ bài viết của Ray Kurzweil trên tờ Economist tóm gọn súc tích nhất. Ông cho rằng AI sẽ đem lại những lợi ích to lớn trong ba lãnh vực: năng lượng, sản xuất và y tế. Về năng lượng, nếu con người chỉ cần khai thác 0,01% năng lượng mặt trời hàng ngày rót xuống mặt đất thì cũng đủ cho thế giới dư xài, không cần phụ thuộc vào xăng dầu, than đá gây ô nhiễm nữa. Thế nhưng cuộc cách mạng năng lượng mặt trời chưa diễn ra mạnh mẽ là do vật liệu chế tạo pin để trữ điện vào ban ngày khi dư thừa đem sang sử dụng vào ban đêm còn quá đắt. Sử dụng AI để sàng lọc hàng ngàn nguyên liệu có thể dùng để làm pin chọn ra hợp chất tối ưu là thế mạnh của AI – khi đó nguồn năng lượng sạch, dồi dào và rẻ tiền sẽ biến đổi hoàn toàn thế giới.

Năng lượng dồi dào sẽ dẫn tới sản xuất giá rẻ, kể cả robot thông minh thay dần con người trong các công việc nặng nhọc, nguy hiểm. Ở lãnh vực thứ ba, AI sẽ thúc đẩy những bước tiến đột phá trong công nghệ sinh học, giúp thử nghiệm nhanh nhiều loại thuốc, giả lập hàng triệu tình huống khác nhau trong các phòng thí nghiệm ảo, từ đó tìm ra các loại thuốc mới cho loài người.

Cho dù những dự báo của Kurzweil mang tính khả thi cao, chúng cũng đòi hỏi thời gian, tính bằng cả thập niên nữa. Vì thế có thể tạm thời kết luận, AI rất có ích nhưng hãy bắt tay vào sử dụng chúng đi cho nhu cầu từng cá nhân, từng tổ chức, từng công ty. Đừng ca tụng tiềm năng của chúng nữa vì sự cường điệu thường đem đến thất vọng trong khi AI cũng như nhiều đột phá công nghệ, cần sự kiên nhẫn và dụng công để khai thác.

 

Box

Nhờ AI viết tít báo

Đặt tít thường là công việc của người biên tập chứ không phải của phóng viên. Đặt tít là một nghệ thuật, sao cho vừa ngắn gọn vừa thu hút sự chú ý của người đọc, nếu có các yếu tố hài hước, chơi chữ và trong thời đại Internet, đáp ứng yêu cầu SEO nữa thì quá tốt.

Người viết thử tải toàn bộ bài này lên một số AI tạo sinh phổ biến rồi nhờ chúng đặt dùm cái tít, lưu ý văn phong dí dỏm nhưng ngắn gọn. ChatGPT cho vài tít có vẻ như muốn tạo sự hấp dẫn: AI: Siêu trí tuệ hay trợ lý mau quên?; AI: Đột phá công nghệ hay chỉ là “thánh phán”?

Gemini của Google đề nghị đến 10 tít, kể cả một vài tít khá bí ẩn, không biết sao nó đưa ra: AI: "Lên Giàn Giả" Hay "Xuống Giếng Thật"?; AI: "Giải Mã Bí Ẩn" Hay "Tạo Ra Mê Cung"?; AI: "Chìa Khóa Tương Lai" Hay "Hố Đen Vô Tận"?

Nhìn chung là chưa ổn – thôi cứ để công việc này cho biên tập viên như họ đang làm, chưa AI nào thay được.

 

 

“AI Washing” là gì?

 

Từ tháng 3-2024 đến nay có ít nhất 3 công ty niêm yết tại Mỹ bị Ủy ban Chứng khoán Mỹ (SEC) cáo buộc đã sử dụng chiêu thức “AI Washing”. Đây là tội gì? Nó có phổ biến không?

Nói cho đơn giản, giả dụ bạn đang viết một kế hoạch kinh doanh trên máy tính xách tay. Thỉnh thoảng phải dùng Google để tìm kiếm tài liệu nên có thể khoe đã sử dụng thuật toán tìm kiếm tân kỳ; viết xong dùng chức năng kiểm tra chính tả tuyệt vời của Microsoft; đôi lúc gặp cụm từ khó chưa hiểu nghĩa bèn dùng ChatGPT đa năng để hỏi han. Vậy cuối cùng bạn có thể kết luận kế hoạch kinh doanh của bạn được biên soạn có sử dụng trí tuệ nhân tạo (AI) trong mọi bước đi, tích hợp các mô hình học máy, kết hợp với AI tạo sinh được chăng? Nếu bạn khoe như vậy, đó chính là một dạng “AI Washing” mà SEC đang cảnh báo – nói nôm na theo tiếng Việt là “Nổ AI”.

Cá nhân “nổ AI” không ai nói làm gì nhưng công ty mắc lỗi “AI Washing” sẽ gây hiểu nhầm cho giới đầu tư, làm họ bỏ tiền ra mua cổ phiếu vì cứ tưởng công ty đang đầu tư mạnh vào một lãnh vực đang nóng là AI. Chủ tịch SEC, Gary Gensler đã nhiều lần cảnh báo các công ty không được “nổ” quá thực tế ứng dụng AI vì như thế họ đang vi phạm luật chứng khoán. Giải thích một cách chính thức thì “AI Washing” được xem là một chiêu thức marketing một số công ty sử dụng để phóng đại tầm mức ứng dụng công nghệ AI trong các sản phẩm của họ. Mục tiêu là nhằm biến sản phẩm của công ty có vẻ hiện đại hơn thực tế, tận dụng mối quan tâm và sự thổi phồng quanh AI. Sở dĩ gọi là “AI Washing” bởi trước đó đã có khái niệm “Greenwashing”, để chỉ các chiêu thức một số công ty sử dụng nhằm tạo cảm giác họ đã nổ lực có những bước tiến mạnh theo hướng sản xuất xanh, sạch, bảo vệ môi trường trong khi thực tế không phải như vậy.

Mới đây nhất, vào giữa tháng 6-2024, SEC kiện nhà sáng lập, cựu tổng giám đốc điều hành Joonko, một nền tảng tuyển dụng trực tuyến, từng tuyên bố họ sử dụng AI để kết nối các công ty cần tuyển dụng với các ứng viên xuất thân từ các nhóm người ít được chú ý. Trong số các cáo buộc, SEC cho rằng Joonko hoàn toàn không sử dụng gì dính líu đến AI như họ khoe. Ngoài ra người sáng lập còn bị các cáo buộc khác như giả mạo hợp đồng, chỉnh sửa các bản sao kê ngân hàng, báo cáo thổi phồng số lượng khách hàng của công ty.

Vào tháng 3-2024, hai công ty Delphia và Global Predictions đồng ý nộp tổng cộng 400.000 đô-la để giải quyết đơn kiện của SEC cho rằng cả hai đưa ra những tuyên bố sai và gây hiểu nhầm về việc sử dụng AI. Delphia từng khoe biết cách làm cho trí tuệ nhân tạo của họ thông minh hơn nên có thể dự báo công ty nào hay xu hướng nào sẽ nổi trội để mọi người có thể đầu tư vào chúng sớm hơn những người khác. Global Predictions thì tuyên bố họ là nhà tư vấn tài chính AI đầu tiên được quản lý và nền tảng của họ cung cấp các dự báo do chuyên gia AI dẫn dắt. Dù vậy cả hai đều không thừa nhận hay bác bỏ cáo buộc của SEC.

Nhiều luật sư cho rằng nỗ lực của SEC trong thời gian qua tương tự những gì họ từng làm vào thời kỳ đầu nóng sốt các loại tiền mã hóa. Hilary Allen, một giáo sư luật của trường American University cho rằng lúc nào cũng có những người cố tình lợi dụng công nghệ để hưởng lợi. Giai đoạn này dễ phát hiện vì chưa tinh vi, chỉ e rằng sau này có những nỗ lực kín đáo khoe ứng dụng AI khó lật tẩy hơn.

Một cách để phát hiện xem công ty có “nổ AI” không là đặt câu hỏi: liệu phần mềm sử dụng trong sản phẩm có những thuật toán có khả năng tự học để đưa ra các quyết định mới chứ không phải do lập trình để thực hiện. Cũng cần lưu ý với người tiêu dùng bình thường ngày nay khi nghe nói đến AI họ liền liên tưởng đến các AI tạo sinh như ChatGPT hay Gemini trong khi thật ra AI có thể nói đến một phổ rộng rãi hơn nhiều các công nghệ sử dụng học máy để huấn luyện dựa trên dữ liệu chứ không phải được lập trình từ trước.

Rất nhiều sản phẩm tiêu dùng ngày nay, từ tủ lạnh, máy giặt đến máy hút bụi thực chất chỉ là có kết nối Internet để điều khiển thông qua các ứng dụng trên điện thoại di động nhưng cũng được quảng bá là sản phẩm AI. Phép thử kiểm tra là xem kỹ chúng có tự thực hiện được thao tác nào không do chúng tự quyết định thực hiện dựa trên các dữ liệu đầu vào do chúng thu thập. Hay tất cả là do chúng ta cài đặt một loạt các điều kiện trên ứng dụng rồi để chúng lần lược tiến hành các thao tác đã được lập trình.

Trong bối cảnh ngay cả các “ông lớn” công nghệ như Google, OpenAI hay Microsoft đều đang đau đầu với hiện tượng các chatbot của họ dễ bịa chuyện, gọi là bị ảo giác (hallucination) thì các lời khẳng định của một công ty nào đó cam đoan trợ lý ảo sử dụng AI tạo sinh của họ hoàn toàn chính xác 100%, không hề nói sai lần nào chắc chắn là một dạng “nổ AI”. Khi bên dưới các sản phẩm ChatGPT, Gemini hay Copilot đều thận trọng nhắc người dùng, không nên tin hẳn vào kết quả vì chúng có thể nói sai, một lời cam đoan ẩu như thế sẽ gây tác hại to lớn đến người dùng cả tin, xứng đáng bị gán danh “AI Washing”.

  

Friday, December 31, 2021

Cryptocurrency

 Phép thử tiền crypto

 

Không biết hãng Finder khảo sát ở đâu, với ai mà kết luận đến 41% dân Việt Nam có sở hữu tiền mã hóa (cryptocurrency hay crypto), đứng nhất thế giới luôn. Nghe còn ấn tượng hơn là 28% trong số này có đầu tư vào bitcoin! Hãng nghiên cứu Chainalysis cũng có kết luận tương tự.

Cũng như thông tin hình chụp bức tranh này, hình số hóa chiếc giày kia được bán đấu giá mấy triệu đô-la, các mẩu tin về thế giới tiền ảo gây hoài nghi, tò mò và thắc mắc liệu thế giới chúng ta đang sống có đang rơi vào chỗ điên loạn khi người ta tranh nhau mua những đồng tiền được đặt tên theo những con chó một cách đùa giỡn! Nhưng cũng có nhiều người tin vào cái tương lai của thế giới ảo đó – hăm hở tìm hiểu để tránh lỡ chuyến tàu làm giàu của thế kỷ. Giải thích như thế nào đây, cái hiện tượng kỳ lạ này?

*                           *                           *

Không đợi đến khi Yuval Harari viết cuốn Sapiens, người ta mới biết các khái niệm như thượng đế, đất nước, tiền, doanh nghiệp… là không có thật, là các thực thể chỉ tồn tại trong trí tưởng tượng của con người. Người ta đẻ những khái niệm đó ra để làm nền tảng gắng kết con người lại với nhau, nâng con người từ mức độ một động vật như bao động vật khác lên thành một loài độc đáo, biết kiềm chế để hợp tác làm nên những điều kỳ vĩ.

Thế tại sao không suy nghĩ những khái niệm mới nảy nòi sau này như cái Metaverse của Mark Zuckerberg hay hàng loạt khái niệm kỳ lạ như NFT (non-tangible tokens – bản sao kỹ thuật số duy nhất của một tác phẩm), Bitcoin và hàng loạt đồng tiền mã hóa khác… cũng là những thực thể không có thật sẽ tồn tại trong trí tưởng tượng của những thế hệ sau này. Nếu thế hệ trước tin vào cái cấu trúc tập trung của xã hội, có thứ bậc, trên dưới thì thế hệ sau đòi mọi thứ phải phi tập trung, ngang hàng. Và thời điểm hỗn loạn của thế giới ảo hiện nay là lúc các khái niệm phi tập trung đó được rao giảng, được nhào nặn, lý thuyết hóa để sẽ có những nhóm người tin chúng như các thế hệ trước tin vào tờ giấy của các chính phủ phát hành và bảo đó là tiền. Chúng ta từng tin vào hàng loạt khái niệm không có thật thì đã sao.

Trong một thời gian dài, người nào ra kinh doanh là đem toàn bộ tài sản kể cả nhà cửa, vườn tược ra đặt cược cho các thương vụ bán buôn. Thua lỗ, nợ nần là rất dễ bị xiết hết gia sản. Rồi có lẽ một nhóm “doanh nhân” nào đó ngồi lại, nghĩ ra khái niệm “trách nhiệm hữu hạn” để chỉ ràng buộc trách nhiệm của người sản xuất, kinh doanh vào một số vốn nhất định mà họ đưa vào thương trường mà thôi. Trước đó công ty trách nhiệm hữu hạn không hề tồn tại; sau khi luật lệ ra đời, nó cũng không hề tồn tại trên cuộc đời này nhưng lại rất thực trong tâm trí những người liên quan, cùng chia sẻ niềm tin được thiết lập bằng luật lệ. Ngày nay không ai nói khái niệm một công ty chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn là điên rồ cả.

Ngược lại, bây giờ mà nói “quân xử thần tử, thần bất tử bất trung”, ắt hẳn mọi người sẽ nói đồ khùng; hay giới trẻ sẽ cười khi nghe khuyên “gái thời tiết hạnh làm câu trau mình”. Với thế hệ sau, quan hệ giữa vị tổng thống một nước với người dân nước đó hay quan niệm trinh tiết đã thay đổi tận gốc rễ. Điều muốn nói là ở thời nào người ta cũng cùng nhau tin vào một số khái niệm thì những khái niệm đó sẽ trở thành chân lý đúng đắn, không có gì bàn cãi.

Nay một đồng tiền mà mỗi lần đem ra tiêu xài phải tìm đỏ mắt mới có nơi chấp nhận, mỗi giao dịch phải chờ vài phút đến vài chục phút và tiêu tốn cả ngàn ký điện… có người cho là điên nhưng cũng có người hoan hô. Đó là bitcoin. Một hình chụp bìa báo Economist thành một tác phẩm mang tên NFT được tranh mua với giá gần nửa triệu đô-la, chúng ta cho là khùng nhưng vẫn có người mua đấy thôi.

Thôi thì những người lớn tuổi đã quen với các khái niệm cũ được dày công vun đắp biết bao thế hệ hãy cứ hoài nghi và tránh xa các món vật phẩm mới trong cái “đa thế giới” mà các thế hệ sau đang tìm cách xây dựng rồi vun đắp theo kiểu của họ. Thế hệ trẻ cứ hăm hở với các khái niệm xa lạ như tài chính phi tập trung (DeFi), chuỗi khối (blockchain), tiền mã hóa, hợp đồng thông minh, tổ chức tự chủ phi tập trung (DAO)… và cứ trò chuyện với nhau để dần biến những khái niệm này thành “chân lý” như kiểu “công ty trách nhiệm hữu hạn” ngày xưa.

*                           *                           *

Chỉ có một điều: cho dù 41% dân Việt Nam có sở hữu tiền mã hóa thật đi chăng nữa, 59% còn lại không mà tiền mã hóa ắt không muốn nửa thế giới kia giả dụ có sụp đổ sẽ ảnh hưởng đến cuộc sống của họ. Tức nền kinh tế tiền mã hóa dù có tiềm năng hay tăng trưởng mạnh mẽ đến đâu cũng nên được gói gọn lại chứ đừng để tác động lên nền kinh tế thật với các sản phẩm thật.

Muốn vậy, cách tốt nhất là các nước ra quy định làm nên các rào chắn ngang cách hai thế giới hay cụ thể hơn, các sàn giao dịch tiền mã hóa cứ mua bán với nhau thoải mái nhưng không được đổi từ tiền mã hóa ra tiền thật.

Kể cũng lạ, những người cổ súy cho các đồng tiền mã hóa như bitcoin đều nhấn mạnh đến sự yếu kém của đồng tiền truyền thống như bị nhà nước kiểm soát, giao dịch tốt kém, thế tại sao họ không dùng các đồng tiền đã được sinh ra khá nhiều rồi đấy để mua bán với nhau, đừng dính líu gì đến đô-la Mỹ hay euro hay bảng Anh nữa. Và kể cũng lạ, các đồng tiền mã hóa thay nhau ra đời nhưng hình như chỉ để trao đổi với đô-la Mỹ để tự khen nhau khi so sánh giá tăng lên vùn vụt với các đồng tiền truyền thống. Nếu không so sánh làm sao biết giá trị thật của bitcoin là bao nhiêu khi rất hiếm khi đồng tiền này được sử dụng để đi chợ, mua hàng.

Có thể đoan chắc nếu buộc người đầu tư vào các đồng tiền mã hóa chỉ được dùng tiền thật để mua chứ không được dùng đồng tiền mã hóa để bán rồi mua lại tiền thật, tức chỉ có vào chứ không có ra thị trường này sẽ sớm xẹp như bóng xì hơi.

*                           *                           *

Hiện nay chính sách của các nước đang đi theo hướng này, hoặc cấm hoặc cảnh báo các hoạt động giao dịch tiền mã hóa và các loại token không được xem chúng là tiền. Mua bán các NFT để sau này trong thế giới ảo người sở hữu có thể hãnh diện khoe họ là chủ thì bình thường nhưng tạo sàn giao dịch rồi cho đổi từ tiền mã hóa sang tiền thật là bị cấm. Binance, sàn giao dịch tiền mã hóa lớn nhất thế giới đã bị như thế ở Anh, Italia, Đức, Hà Lan, Nhật Bản, Trung Quốc…

Cách tiếp cận của Mỹ là bảo vệ nhà đầu tư, tức người dân nước họ khi bỏ tiền vào mua các loại tiền mã hóa. Vì thế giới quản lý nước này buộc các sàn kê khai cụ thể như ví tiền mã hóa của khách để ở đâu, dữ liệu giao dịch lưu ở nước nào, ai chịu trách nhiệm mỗi khi có kiện tụng xảy ra. Đặc biệt Cục dự trữ liên bang nước này (Fed) rất quan tâm đến đồng stablecoin, tức đồng tiền mã hóa gắn chặt giá trị với đô-la Mỹ bởi như thế là làm loãng khả năng điều hành tiền tệ của họ.

Châu Âu cũng đang soạn luật để quản lý thị trường tiền mã hóa, trong đó sẽ cấm các đồng tiền stablecoin trả lãi và lưu hành. Nhiều nhà làm luật kêu gọi phải soạn quy định nhanh lên trước khi các stablecoin lấn sâu vào thị trường tiền tệ làm một tỷ lệ lớn không nằm trong sự kiểm soát của chính quyền các nước. Nhưng ưu tiên của châu Âu hiện nay là ngăn chặn việc sử dụng tiền mã hóa để rửa tiền và tài trợ cho khủng bố.

Tuy nhiên, có nước xua đuổi thì cũng có nước mời gọi tiền mã hóa vào nước họ đầu tư. Chẳng hạn, theo tờ New York Times, Ukraine đang cố gắng trở thành “thủ đô” của tiền mã hóa; tháng 9 vừa rồi mới thông qua luật hợp pháp hóa bitcoin. Chính phủ nước này đang đưa ra nhiều ưu đãi để lôi kéo các doanh nghiệp chuyên về tiền mã hóa dọn về đây như một phương cách thúc đẩy nền kinh tế và xây dựng lại hình ảnh một đất nước từng chịu tai tiếng về tham nhũng, tai tiếng tài chính.

Vấn đề nằm ở chỗ các doanh nhân công nghệ nếu có dồn về Ukraine là do các yếu kém của nước này để họ rảnh tay suy nghĩ đủ loại sản phẩm nhằm hút tiền của thiên hạ. Giới quản lý tài chính Ukraine càng ít biết về họ, càng không hiểu gì về sản phẩm họ chào bán, càng mơ hồ về tình hình tài chính của họ, các công ty này càng mừng. Âu đó cũng là mâu thuẫn của cái thế giới ảo khi hết lời ca tụng về các đồng tiền mã hóa nhưng khi có lãi lại đổi ra tiền đô-la hay euro để có tiền thật cầm trong tay mới mua được du thuyền hay máy bay riêng.

 

Lại thêm… Web3

 Lại thêm… Web3

 

Nghĩ cũng vất vả cho những người muốn bám theo các chuyển động công nghệ, hết “dữ liệu lớn” đến “học máy”, hết “trí tuệ nhân tạo” đến “công nghệ 4.0”. Nay thêm một khái niệm mới đang trở nên thời thượng, chưa biết sẽ mở ra một giai đoạn mới của Internet hay chỉ là một cơn sốt chóng qua – đó là Web3.

Các đời Web

Web 1.0 là các trang web tĩnh, chỉ hiển thị văn bản, chữ không là chữ vì ảnh được dùng hạn chế; càng nhiều ảnh, tốc độ tải về càng chậm, có lúc sau khi gõ địa chỉ phải chờ một lúc sau toàn bộ trang mới hiện lên màn hình. Lúc đó bấm vào đường dẫn, máy tự động chuyển chúng ta sang trang khác đã là một sự diệu kỳ. Với Web 1.0 chèn video là điều xa xỉ, ít ai làm. Thông tin chỉ đi một chiều từ web đến người xem.

Đến đầu thế kỷ này, Web 2.0 thay chân Web 1.0 để biến Internet thành một thế giới động, có tương tác hai chiều, có hình ảnh, video đủ cả. Cứ nhìn vào những gì Gmail có thể làm được trên nền tảng web mới thấy Web 2.0 đã đi rất xa so với Web 1.0. Hiện nay người dùng vào Facebook, tương tác đủ kiểu, từ bấm “like” đến gõ nhận xét, từ tạo ra một mẩu chuyện mới đến phát video trực tuyến cho cả ngàn người xem. Đó chính là Web 2.0. Cần lưu ý người ta dùng Web 2.0 nhưng không chỉ trình duyệt dùng trên máy tính mà còn các ứng dụng trên điện thoại di động và các thiết bị khác.

Nay, theo nhận định của một số tên tuổi lớn trong ngành công nghệ, giai đoạn Web3 đã bắt đầu, dù mới manh nha nhưng, theo họ, sẽ thay đổi tận gốc rễ cách con người sử dụng Internet. Web3 có thật hay không, bao giờ nó phổ biến hay Web3 chỉ là cách truyền bá cho các loại tiền mã hóa, cho giới mua bán NFT dụ dỗ người mới – đến nay vẫn chưa có câu trả lời dứt khoát.

Dù có nhiều người hình dung Web3 theo những cách khác nhau, cái nguyên lý ai nấy đều đồng ý là Web3 khác các đời web trước ở chỗ “phi tập trung”. Cả tỷ người dùng phải dựa vào Google để tìm kiếm thông tin, nhận, gởi email; dựa vào Facebook để duy trì liên lạc với bạn bè; vào Spotify để nghe nhạc; vào Netflix để xem phim. Các nơi này đóng vai một trung tâm, một đầu mối để các bên gặp nhau mà giao dịch như ca sĩ gặp người nghe, diễn viên gặp người xem, nhà quảng cáo gặp khách tiêu dùng. Đó là tính chất tập trung của Web 2.0. Với Web 3.0 thì ngược lại vì thế thay cho các app (ứng dụng) trên Web3 sẽ là các dApp (ứng dụng phi tập trung).

Người ta kỳ vọng Web3 (cũng lạ hầu hết đều viết là Web3 chứ không phải Web 3.0) sẽ loại bỏ các tổ chức trung gian hiện đang ăn một phần rất lớn doanh thu cho các bên tạo ra. Trên lý thuyết Web3 sẽ giúp ca sĩ tiếp cận trực tiếp với người nghe, nhận thù lao thẳng, không chia hoa hồng cho ai. Web3 chia tiền quảng cáo cho người dùng Facebook chứ không để nơi này hưởng trọn như bây giờ. Nói cách khác Web3 là một nền tảng “dân chủ hóa” Internet, đưa nó về lại với các ý tưởng nguyên thủy, ai nấy bình đẳng như nhau, không chịu lệ thuộc vào các ông lớn công nghệ.

Nhiên liệu của Web3

Để thực hiện nguyên lý “phi tập trung”, các máy tính kết nối với nhau đều ngang hàng, Web3 phải dựa vào công nghệ blockchain. Nghe đến đây sẽ có nhiều người nản vì đụng phải khái niệm “chuỗi khối” mà họ đã ghét hay bó tay không thể hiểu. Cứ hình dung mỗi máy tính là một khối, liên kết với nhau một cách chặt chẽ thành chuỗi để duy trì một cuốn sổ cái, máy nào cũng như nhau, ai ghi thêm gì vào đều phải được toàn bộ các máy trong chuỗi chấp nhận. Vì thế cuốn sổ cái này ai cũng truy cập được nhưng không thể một ai tự mình sửa chữa thông tin.

Như vậy sau này dùng Web3 để mua hàng, nghe nhạc, coi phim, chơi game, tham gia mạng xã hội… tất cả đều sử dụng công nghệ blockchain, về lý thuyết sẽ tạo ra các mối liên kết, dù đó là để trả tiền, nhận tiền, đăng nội dung, tải nhạc… Không có máy chủ, không có tổ chức đầu mối mang tính tập trung – tức không có Mark Zuckerberg phán bạn viết như thế này là vi phạm tiêu chuẩn cộng đồng rồi, phải xóa thôi. Còn nền tảng kỹ thuật của Web3 phải như thế nào để giải quyết hàng loạt các vấn đề như vận hành blockchain cần nguồn năng lượng lớn, phí “xăng nhớt” duy trì blockchain cao, ai đứng ra phân xử nếu có tranh chấp, làm sao ngăn ngừa đạo nhạc, đạo phim, thậm chí lừa đảo lấy hết hàng hóa… thì chịu, chưa có tài liệu nào về Web3 nói cho cặn kẽ.

Hiện nay các nơi ứng dụng Web3 ở mức sơ khai thì tặng người dùng các token như các đồng xu ảo sau này sẽ dùng vào nhiều việc như tiền để trả dịch vụ đọc báo hay phiếu bầu để quyết định một số vấn đề được đưa ra để trưng cầu. Có lẽ các bạn đã nghe nói đến NFT – tức một mã chứng nhận quyền sở hữu trên thế giới ảo một tài sản nào đó. Thị trường mua bán NFT đang được tiến hành trên Web3, thật ra là một tiện ích mở rộng của các trình duyệt Chrome hay Firefox, được biến thành ví điện tử chứa tiền mã hóa hay sản phẩm NFT. Các sàn giao dịch tiền mã hóa phi tập trung, tức không có công ty nào đứng ra làm chủ xị, không có con người điều hành, tất cả tiến hành giao dịch với nhau một cách tự động thông qua các hợp đồng thông minh cũng là một dạng Web3.

Hoài nghi và kỳ vọng

Mặc dù hầu hết giới công nghệ đều thừa nhận blockchain sẽ có nhiều ứng dụng thú vị trong tương lai chứ không chỉ dùng để quản lý tiền mã hóa như Bitcoin hay Ether nhưng cũng không ít người cho rằng khái niệm Web3 hiện đang được thổi phồng quá đáng, đặc biệt là việc mua bán NFT tiền triệu, tiền tỷ. Một điều lạ mà nhân loại nhiều lần chứng kiến, hễ đẻ ra một thứ công nghệ mới, y như rằng một thời gian ngắn sau sẽ có kẻ tận dụng nó để làm điều xấu như máy tính và virus, tiền mã hóa và lừa đảo đầu tư đa cấp…

Web3 vận hành trên blockchain hay trên các hợp đồng thông minh – mà những thứ này do con người soạn ra nên nó có bảo đảm an toàn hay không tùy thuộc vào tay nghề và đạo đức của người lập trình. Hai bên giao dịch với nhau bằng một hợp đồng thông minh nhưng một bên cố ý cài cắm các điều khoản gài bẫy bên kia, nếu không phát hiện mà cứ ký, dù “thông minh” vẫn xảy ra khả năng bị lừa.

Ở hướng kỳ vọng, người ta mong Web3 sẽ phá vỡ thế độc quyền của các đại gia công nghệ, từ Google đến Apple, từ Facebook đến Twitter… Thử nghĩ mà xem, hiện nay có ai đủ khả năng tạo ra một mạng xã hội khác để cạnh tranh với Facebook, nó quá lớn, số người dùng áp đảo nên hàng loạt mạng tìm cách ngoi lên nhưng không cạnh tranh nổi. Ai có thể xây một ngôi nhà chứa các ứng dụng trên điện thoại di động để người dùng vào tải về, trừ phi phải khép mình núp bóng vào App Store hay Google Play. Nếu Web3 thành công, sẽ có hàng loạt Facebook mới ra đời do người dùng xây dựng nên và tự họ quản lý.

Nhưng mới tuần trước hai nhân vật nổi tiếng trong làng công nghệ đã lên tiếng chê bai Web3. Cựu giám đốc điều hành Twitter là  Jack Dorsey cho rằng Web3 nếu vận hành cũng sẽ nằm dưới quyền kiểm soát của các quỹ đầu tư mạo hiểm. Ông viết trên Twitter: “Bạn không sở hữu được Web3 đâu. Các quỹ đầu tư mạo hiểm và đối tác nắm hết. Web3 sẽ không bao giờ thoát được vòng kềm tỏa của họ. Suy cho cùng nó sẽ là một hình thái tập trung với một cái nhãn khác mà thôi”. Elon Musk, ông chủ hãng Tesla thì nói Web3 là một từ marketing kêu rổn rảng hơn là một thực tế. Cũng trên Twitter, ông này viết: “Có ai thấy Web3 đâu không? Tôi không tìm ra nó”.

Nói tóm lại, Web3 hiện giờ mới chỉ ở mức “tiềm năng to lớn”, trên đó có cả những người say mê xây dựng các nền tảng cho nó, cũng có người săm soi các khe hở để lừa đảo làm giàu và nhiều nhất là giới kinh doanh đang thích nghi với nó để soạn các lời có cánh, chiêu dụ đủ loại khách hàng tham gia kẻo lỡ cơ hội. Người bình tĩnh chỉ cần nhớ khái niệm blockchain được rao giảng cả chục năm nay, thử hỏi nó đã được ứng dụng vào việc gì thật sự có ích chưa, ngoại trừ quản lý tiền mã hóa và các loại NFT? “Phi tập trung” đồng nghĩa 10 người 10 ý, rất khó để những con người say mê ý tưởng “phi tập trung” ngồi lại với nhau để xây dựng các chuẩn mực cho thế giới Web3 này.

 

Box

Cách những người nổi tiếng đang tận dụng Web3

Michael Jordan, cầu thủ bóng rổ nổi tiếng cùng con trai là Jeffrey Jordan vừa thành lập công ty Heir để kết nối các danh thủ thể thao với người hâm mộ thông qua Web3. Bỏ ra các ngôn ngữ có cánh thường thấy trong các thông cáo báo chí, có thể thấy Heir sẽ làm một ứng dụng HEIR để phân phối một token xây dựng trên công nghệ chuỗi khối Solana. Trên nền tảng này các vận động viên và người hâm mộ có thể gặp nhau, dùng token này để mua đồ lưu niệm, xem video độc quyền, mua ảnh có chữ ký… Chưa biết ứng dụng này có thành công hay không vì năm 2022 mới ra mắt nhưng về nguyên tắc, vẫn chưa “phi tập trung” hẳn vì các bên còn dựa vào một công ty điều hành làm trung gian là Heir của gia đình Jordan.

  

 

Tayor Swift

 Nàng không thích thì nàng làm lại!

 

Có nhiều người ngạc nhiên khi thấy báo chí âm nhạc giới thiệu album “Red” của Taylor Swift như thể đây là một album mới trong khi “Red” ra đời cách đây đã 9 năm. Cái báo chí nói là “Red” phiên bản mới, “Taylor’s Version” – là cách ca sĩ này chống lại các hãng băng đĩa, giành quyền sở hữu các đứa con tinh thần về lại cho mình.

Số là vào năm 2004 lúc này Taylor Swift mới 15 tuổi, một ca sĩ chưa có album nào nhưng đã bắt đầu nổi tiếng với cây đàn ghitar và mái tóc vàng hoe, cô ký hợp đồng độc quyền với Big Machine Records. Cũng như các hợp đồng lúc đó, hãng ghi âm sở hữu các đĩa gốc, ca sĩ chỉ hưởng tỷ lệ phần trăm ăn chia. Với các đĩa master này hãng ghi âm hưởng phần lớn lợi nhuận từ bán CD, đĩa nhựa, kể cả sau này khi đưa lên các dịch vụ streaming như Spotify hay Apple Music, tiền cũng chảy về Big Machine Records phần lớn rồi sau đó nơi này mới chia lại cho Taylor Swift theo thỏa thuận ban đầu. Đổi lại hãng phải đầu tư mọi chi phí sản xuất rồi chi phí quảng bá cho tên tuổi ca sĩ trong khi chưa biết có thành công hay không.

Cả sáu album đưa tên tuổi của Taylor Swift lên thành một ca sĩ nổi danh khắp thế giới đều được sản xuất theo cách này (gồm Taylor Swift - 2006, Fearless - 2008, Speak Now - 2010, Red - 2012, 1989 - 2014, và Reputation - 2017) với hàng chục triệu album được bán ra. Hợp đồng kéo dài 13 năm đến năm 2018 Taylor Swift mới được “tự do” để chuyển sang ký với hãng Republic Records của Universal. Lúc này cô mới có thể đặt điều kiện bản master tương lai thuộc quyền sở hữu của cô và có lẽ cô đành chịu thua với các bản master của 6 album cũ.  

Nhưng đến tháng 6-2019, hãng Big Machine Records bán mình cho Scooter Braun và sau đó ông này bán các bản master của Taylor Swift cho một hãng khác, Shamrock Holdings lấy 300 triệu đô-la nhưng vẫn được chia doanh thu từ các bài hát của Swift trong tương lai. Vấn đề nằm ở chỗ Scooter Braun là một nhà quản lý âm nhạc, từng làm quản lý cho Kanye West mà West và Swift từng đụng độ ầm ĩ trên sân khấu. Năm 2009 lúc MTV trao giải cho nữ ca sĩ hay nhất cho Taylor Swift thì Kanye West nhảy lên sân khấu giật micro Swift đang cầm lớn tiếng nói video Single Ladies của ca sĩ Beyonce mới hay hơn, xứng đáng được giải hơn. Sau đó một thời gian dài hai bên cứ gấu ó nhau miết.

Thế là Taylor Swift lên án vụ bán đĩa master của cô, thề sẽ ghi âm lại hết cả 6 album để trả đũa. Ngay vào hôm Scooter Braun trở thành chủ nhân mới các đĩa master của mình, Taylor Swift viết trên Tumblr: “Tôi cứ bị ám ảnh bởi cảnh bắt nạt không ngưng tôi phải chịu đựng từ anh ta trong nhiều năm qua. Di sản âm nhạc của tôi nay lại nằm trong tay kẻ muốn hủy hoại nó. Đây là kịch bản tồi tệ nhất có thể hình dung”. Swift cho biết đã thương lượng với Braun để mua lại nhưng không thành.

Nói về lý, dù Taylor Swift không sở hữu các đĩa gốc nhưng cô vẫn còn quyền xuất bản nhạc do cô sáng tác và biểu diễn cũng như quyền ghi âm phiên bản mới 2 năm sau khi hết hạn hợp đồng ký với Big Machine Records. Dĩ nhiên Shamrock Holdings vẫn sở hữu bản master cũ như album Red nguyên thủy nhưng nay Taylor Swift sở hữu album Red mới – Red Taylor’s Version. Người vào Spotify nghe, nếu chọn Red cũ thì tiền về tay Shamrock, nếu nghe Red mới thì tiền về túi Taylor. Cho đến nay cô đã phát hành 2 album làm lại, Fearless (Taylor’s Version) hồi tháng 4 và Red (Taylor’s Version) vào đầu tháng 11 này.

Phóng viên cũng như người hâm mộ cố ý nghe kỹ để phân biệt giữa hai phiên bản nhưng đa phần không thấy gì khác biệt. Taylor Swift cố ý giữ nguyên giai điệu, lời nhạc và hòa âm phối khí để trung thành với bản gốc càng gần càng tốt. Các phiên bản mới có thêm các bài bonus để tặng thêm người nghe. Red bản gốc bán được 1,2 triệu bản ngay trong tuần đầu tiên và tính đến tháng 10-2020 chỉ riêng ở Mỹ Red bán được 4,49 triệu bản, còn tính cả trên thế giới có chừng 8 triệu bản được bán ra. Red bản mới bán được nửa triệu bản trong tuần đầu tiên, trong đó có hơn 100.000 đĩa than. Nhưng ngày nay thiên hạ chủ yếu nghe nhạc “stream” chứ ít mua CD – ngay trong ngày đầu tiên Red phiên bản Taylor được đưa lên Spotify, đã có 122,9 triệu lượt nghe nhạc của cô, trong đó ba phần tư là từ album Red mới. Chỉ cần 4 ngày lượt người nghe bản mới đã vượt bản cũ trên Spotify mặc dù Red cũ đã có sẵn trong playlist của nhiều người.

Theo Forbes, tài sản của Taylor Swift cho đến nay đã lên đến 550 triệu đô-la từ nhạc, bản quyền streaming, các chuyến lưu diễn. Chỉ tính riêng năm 2019 cô đã làm ra đến 185 triệu đô-la, cao nhất trong các nhân vật nổi tiếng, kể cả diễn viên điện ảnh. Về mặt kinh doanh, cô không phải là người dễ bị bắt nạt. Lúc album “1989” của cô ra mắt, cô và hãng ghi âm yêu cầu Spotify chỉ cho người nghe có đăng ký trả tiền mới được truy cập album này nhưng Spotify từ chối (dịch vụ này vừa cho nghe miễn phí kèm quảng cáo và bán tài khoản có trả tiền, nghe không bị chêm quảng cáo; tiền chia cho ca sĩ cũng bên ít bên nhiều). Thế là Swift rút toàn bộ nhạc của cô ra khỏi nền tảng Spotify rồi lên Wall Street Journal viết bài ý kiến nêu rõ quan điểm “âm nhạc không thể miễn phí”.

Sau khi dùng mạng xã hội vận động người hâm mộ gây sức ép buộc Swift đưa nhạc về lại không thành công, Spotify phải nhượng bộ, nâng tiền bản quyền chia cho hãng ghi âm, Swift theo yêu cầu mới được quyền sử dụng kho nhạc của cô như cũ. Ngay cả với Apple Music lúc mới ra mắt dự định cho người dùng nghe miễn phí ba tháng nên sẽ không trả tiền bản quyền trong ba tháng đó. Taylor Swift phản đối và Apple phải nhượng bộ, đồng ý trả đầy đủ ngay từ đầu.

Nay với cú “ta không thích thì ta làm lại” này của cô, giới nghệ sĩ và giới kinh doanh âm nhạc rúng động. Trước đây hàng loạt ca sĩ từng bày tỏ sự bức xúc trước các điều khoản ràng buộc của các hãng ghi âm nhưng ít ai chịu bỏ công ghi âm lại các album cũ của mình như Taylor Swift, cũng nhờ nguyên một năm không lưu diễn, tránh đại dịch nên có thời gian. Biết đâu cô sẽ là người tiên phong cho một phong trào làm lại bản master mới của nhiều ca sĩ. Và như thế bên thua thiệt là các hãng ghi âm vì phần lớn trường hợp phải chấp nhận rủi ro khi đầu tư vào những tên tuổi chưa biết có thành danh hay không. Họ đòi sở hữu các bản master là để phần nào bù đắp các rủi ro đó.

Theo số liệu trên tờ Wall Street Journal, thông thường hãng ghi âm hưởng đến 80% doanh thu được chia từ các nền tảng streaming, 20% chia cho ca sĩ. Nhưng nếu ca sĩ nắm quyền sở hữu và khai thác bản master, họ sẽ hưởng từ 80% đến 95% doanh thu.

Hiện nay các hãng ghi âm tìm cách phòng ngừa các trường hợp như Taylor Swift như hãng Universal tăng gấp đôi thời gian nghệ sĩ không được ghi âm lại các bản nhạc cũ. Các thỏa thuận tiêu chuẩn trước đây thường là hạn chế ca sĩ ghi âm lại các bản nhạc cũ trong vòng 5 năm sau khi thực hiện bản gốc hay 2 năm sau khi hết hạn hợp đồng. Thời hạn mới của hãng Universal đưa ra lần lượt là 7 năm và 5 năm.  

Trước khi có các dịch vụ nghe nhạc trực tuyến như Spotify hay Tidal, các hãng ghi âm không sợ lắm khả năng nghệ sĩ trở chứng ghi âm lại các bản master họ đang nắm giữ vì chi phí tổ chức thu đĩa không phải là nhỏ và ghi xong rồi phát hành cũng không phải là chuyện đơn giản. Nay chuyện ghi âm dễ như không rồi các kênh phát hành nhạc có sẵn khắp nơi, kể cả trên YouTube. Vai trò các hãng ghi âm ngày càng nhỏ đi và doanh thu vì thế cũng teo tóp lại – ngày càng nhiều nghệ sĩ đòi sở hữu bản master. Dĩ nhiên tăng thời gian độc quyền thì đổi lại Universal phải tăng tỷ lệ chi trả cho nghệ sĩ.

Đó là chưa kể các nền tảng phi tập trung mới trong thế giới giao dịch trên blockchain có thể cho phép ca sĩ bán nhạc trực tiếp cho người nghe không cần qua trung gian như Apple Music – lúc đó không chỉ các hãng ghi âm phải lụi tàn mà Spotify cũng không còn gì để chào bán.

 

Mọi chuyện có thể thương lượng – trừ tình yêu

 Điểm bất thường

 

Bản thân cuốn “L’Anomalie” của nhà văn người Pháp, Hervé Le Tellier là một điểm bất thường: ông từng viết hơn 20 cuốn tiểu thuyết nhưng chưa có cuốn nào lọt vào danh sách bán chạy, mãi cho đến cuốn này. Xuất bản bằng tiếng Pháp vào giữa năm ngoái, “L’Anomalie” nhanh chóng bán được hơn 1 triệu cuốn – một kỷ lục chưa từng thấy tại Pháp trong mấy chục năm qua. Sách được trao giải Goncourt năm 2020 và tháng rồi đã được dịch sang tiếng Anh với tựa đề “The Anomaly”.

Điểm bất thường ở đây là chuyến bay Air France 006 từ Paris đến New York ngày 10 tháng 3 năm 2021 bị rơi vào vùng thời tiết xấu, máy bay chao đảo, có lúc rơi tự do nhưng cuối cùng cũng hạ cánh an toàn. Một trăm linh sáu ngày sau, cùng chuyến bay Air France 006 đó, cũng trên lộ trình Paris đến New York, cũng bay bằng máy bay Boeing 787, cũng hai viên phi công và 230 hành khách đến sợi tóc, lông chân không khác gì chuyến bay trước… lại rơi vào vùng thời tiết xấu, máy bay quăng quật một lúc, phát tín hiệu cấp cứu và sau đó hạ cánh. Thế là thế giới rơi vào tình huống kinh khủng: có mấy trăm bản sao những con người cụ thể đang song song tồn tại trên thế giới này; chỉ khác nhau ở hơn ba tháng ký ức một bên có một bên không.

“The Anomaly” không bắt đầu ngay bằng câu chuyện khoa học viễn tưởng như thế. Tác giả nhẩn nha mỗi chương viết về một nhân vật trên chuyến bay này: từ tay sát thủ chuyên thực hiện các hợp đồng giết mướn đến ông nhà văn thành công hơn trong nghề dịch sách; từ viên phi công sau khi hạ cánh phát hiện mình bị ung thư giai đoạn cuối đến anh chàng ca sĩ đồng tính người Nigeria… Điểm chung duy nhất của các nhân vật này là đi trên chuyến bay 006 định mệnh.

Xin bạn đọc thứ lỗi vì người viết đã tiết lộ một phần cốt truyện nhưng chỉ là một phần rất nhỏ - câu chuyện sau khi phát hiện chuyến bay 006 bỗng dưng tạo ra thêm một bản sao y chang mới là phần chính. Các nhân vật trên chuyến bay nghĩ gì khi biết có thêm một bản sao của chính mình đang tồn tại, hiện đang ăn ngủ chơi đùa với vợ con mình? Ghen tức, tranh giành hay đồng cảm, thú vị quan sát? Những người chung quanh sẽ phản ứng như thế nào, chọn ai là người thật, ai là bản sao? Bạn bè sẽ chơi với ai, e dè ai? Luật pháp sẽ thừa nhận người trên chuyến bay trước hay chuyến bay sau, ai có quyền sở hữu nhà, nhận tiền lương hay bị vào tù vì phạm tội?

Giả thử cuộc đời này là một không gian giả lập do con cháu chúng ta vài ngàn năm nữa dựng lên trong các hệ thống máy tính siêu mạnh của chúng, rất có thể chương trình bị một lỗi nhỏ, một chuyến bay bỗng dưng tách làm hai bản sao, hạ cánh cách nhau 106 ngày. Nếu vậy cách xử lý hay nhất là gì? Tiếp tục cho mấy trăm con người giống nhau đến tận các DNA va chạm nhau với đủ thứ rắc rối từ đạo đức đến luân lý đến luật lệ hay cứ “delete” bớt một bản sao như có người đề nghị với Tổng thống Mỹ sau khi hiểu sự tình?

Đến đây bạn đọc có thể hình dung ra sức hút của “The Anomaly”, mở đầu như một tiểu thuyết hình sự với một nhân vật giết thuê rồi chuyển sang truyện tình cảm khi miêu tả cuộc tình lãnh mạn. Sau khi để lộ ra đây có thể là một cuốn khoa học giả tưởng kiểu như phim “The Matrix” sách nhanh chóng chuyển qua dạng triết học với những câu hỏi không dễ trả lời. Như nhân vật nữ luật sư có thai trong thời gian ba tháng bản sao của cô chưa xuất hiện – đối diện với chọn lựa ai phải ra đi, người nữ luật sư tháng Sáu nhường cuộc sống có chồng, có sự nghiệp cho nữ luật sư tháng Ba vì cái thai mà cô không có. Như nhà văn tháng Ba sau chuyến bay bổng lên tay, viết một tác phẩm bán chạy cả triệu bản nhưng cuối cùng đi tìm cái chết không ai hiểu vì sao. Nhà văn tháng Sáu bỗng dưng nổi tiếng vì một tác phẩm đọc thì đúng là giọng điệu của mình như không phải do mình viết ra – nay có nhận không, có hưởng vinh quang đó không!

Có lẽ dân Pháp tìm đọc cuốn “L’Anomalie” bởi khung cảnh bị cách ly với bên ngoài trong suốt một thời gian dài chống dịch Covid-19, họ tìm thấy sự đồng cảm như thể đang sống trong một thế giới giả lập. Khó lòng tin được thực tế đường phố Paris đông đúc tấp nập nay vắng hoe không một bóng người. Chấp nhận giả thuyết giả lập còn dễ hơn chuyện thừa nhận phải làm việc từ nhà, con cái học trên các lớp ảo, gặp người thân qua màn hình máy tính, mọi việc ngưng đọng lại vì một con virus không ai tường mặt…

Có người bảo thế giới này đúng là giả lập; chứ làm sao giải thích được cho đến nay vẫn có người tin trái đất phẳng, có người tranh nhau mua các tác phẩm ảo giá cả triệu đô-la. Không giả lập sao được khi ông chủ Facebook Mark Zuckerberg chỉ vừa tuyên bố đổi tên công ty thành Meta để xây dựng một đa vũ trụ Metaverse, người ta bắt đầu tranh nhau mua bán địa ốc ảo, tài sản áo, kể cả giày Nike ảo để sau này đem ra xài trên thế giới Metaverse kia. Chỉ là do một tay lập trình nào đó 1.000 năm sau tinh nghịch chế ra chứ làm sao thiên hạ có thể tin vào những chuyện điên rồ thế kia.

Trả lời phỏng vấn của báo chí, nhà văn 64 tuổi nói: “Tôi ngạc nhiên vì sự thành công của cuốn sách, nhất là khi nó mang tính thử nghiệm, rất kỳ quái và hơi điên một chút”. Ông nói thêm: “Có lẽ đọc nó là phương cách trốn khỏi thực tế chăng”. Le Tellier cho biết ông bị cuốn hút vào ý tưởng bản sao con người: “Thật thú vị nếu về nhà tôi thấy một bản sao chính tôi đang ngồi chờ ở đấy. Tôi sẽ phản ứng như thế nào đây?” Thế là ông bỏ ra một năm để viết cuốn “Điểm bất thường”, thỉnh thoảng lại đem chính mình ra diễu nhại bằng một nhân vật nhà văn giống như ông.

Cách các nhà văn thường dùng khi viết tiểu thuyết là sáng tạo ra các nhân vật rồi đẩy nhân vật vào các hoàn cảnh có gút thắt để làm họ sống như thật. Ở đây Le Tellier làm ngược lại: dựng ra một bối cảnh kỳ dị trước rồi thả vào đó bảy tám nhân vật sẽ bị hoàn cảnh buộc phải có những ứng xử bất thường. Như khi được giải thích một trong những giả thuyết giải thích trường hợp kỳ lạ của chuyến bay 006, Tổng thống Mỹ giận dữ đáp: “Những gì ông miêu tả thật quái đản. Tôi không thể nào là một chú Super Mario (nhân vật trong trò chơi hái nấm) và chắc chắn tôi sẽ không đứng ra giải thích cho dân Mỹ rằng họ chỉ là những chương trình máy tính trong một thế giới ảo”.

Để chuyện thật, ảo chuyện giả lập sang một bên, cuốn tiểu thuyết buộc người đọc phải trả lời một câu hỏi như cách tác giả đặt vấn đề: “Rốt cuộc, câu hỏi mấu chốt cho mọi nhân vật, câu hỏi duy nhất là, tôi sẽ làm gì với tình yêu của tôi?”. Le Tellier nói với báo chí: “Tình yêu là điểm khi mọi nhân vật sẽ chao đảo, nơi họ mềm yếu và nơi họ phải quyết định. Với mọi thứ khác, họ có thể thương lượng. Tình yêu đi liền với sự chiếm hữu; khi một biến thành hai, mọi chuyện trở nên phức tạp”. Đúng là mọi chuyện có thể thương lượng – trừ tình yêu.

 

 

NFT

 Thăm lại hiện tượng NFT

 

Cách đây không lâu khi các NFT mới xuất hiện, báo chí trong đó có Tuổi trẻ Cuối tuần đã có nhiều bài giải thích, kể đầu đuôi sự ra đời của hiện tượng “Non-Fungible Token” này (Hết tiền mã hóa đến tranh mã hóa). (Đọc thêm bài này). Thế nhưng không ai ngờ chỉ trong mấy tháng cơn sốt NFT dâng cao gấp mấy lần, tháng Giêng thị trường NFT vào khoảng 400 triệu đô-la nay đã lên đến 2 tỷ đô-la mỗi tháng, quý 3-2021 đạt mốc 5,9 tỷ đô-la!

Có lẽ đã đến lúc quay lại hiện tượng này để ít nhất khỏi bị cuốn vào một mê hồn trận ai nấy đều biết là “ảo”, “không thể duy trì”, “trước sau gì cũng nổ tung” nhưng ai nấy đều nghĩ mình sẽ kịp thoát trước; ai không chơi sẽ thua thiệt. Nhắc lại một cách ngắn gọn: NFT là bản chứng nhận ảo duy nhất cho một tài sản thật. Chẳng hạn cái NFT mà báo Economist đem ra bán đấu giá được gần 422.000 đô-la là giấy chứng nhận quyền sở hữu trên không gian ảo cái bìa báo thật vẽ hình Alice đang ngắm nhìn các đồng tiền mã hóa chui vào hang thỏ. Bìa báo in trên giấy, số lượng phát hành bao nhiêu là có bấy nhiêu bìa thật tồn tại ngoài đời, báo vẫn giữ bản quyền. Còn giấy chứng nhận NFT chỉ có một – ai mua là có quyền sở hữu. Điều mỉa mai là báo nào đưa tin cũng kèm theo cái hình bìa để minh họa, xem như có hàng triệu tấm hình bìa kỹ thuật số nằm khắp nơi, không khác gì nhau.

Thử hình dung sau tờ Economist, hàng ngàn hàng trăm ngàn nơi khác cũng hăm hở nhảy vào bán thử sản phẩm độc đáo của họ ở dạng NFT; thử tưởng tượng hàng ngàn, hàng trăm ngàn nhà đầu tư có tiền không biết bỏ vào đâu để kiếm lời cho nhanh, bèn tranh nhau mua các NFT này với hy vọng chúng sẽ lên giá như tranh của các danh họa cổ điển. Chừng đó cũng đủ nuôi “phong trào NFT” thêm một thời gian nữa.

Nhưng đến nay đã rõ bên hưởng lợi ngay tức thì mỗi khi có một giao dịch NFT chính là mạng lưới các máy tính đang duy trì cuốn sổ cái ghi nhận sự sở hữu nói trên. Nói cuốn sổ cái đó là blockchain nghe rất “kỹ thuật số” nhưng nói cho dân dã nó như cuốn sổ của Nam Tào, Bắc Đẩu ghi chuyện sinh tử của con người. Để một NFT được ghi vào sổ cái, cũng như sau này bán lại cho ai thì ghi sổ chuyển cho người sở hữu mới, cần phải trả phí xăng nhớt (tiếng Anh gọi là gas), giao động bất thường, có lúc chỉ 5-10 đô-la có lúc lên đến 70 đô-la mỗi giao dịch. Tờ Economist chịu mức phí tạo ra NFT là 98 đô-la.

Nơi hưởng lợi thứ nhì là các dịch vụ tạo ra NFT như Economist cho biết họ sử dụng dịch vụ của Foundation với mức phí là 15% giá trị giao dịch ban đầu và sau này nơi mua có bán lại bức tranh NFT này thì phải trả 5% cho mỗi giao dịch bán lại đó. Có lẽ tờ báo còn phải trả phí cho luật sư để soạn thêm phụ lục hợp đồng, nói rõ người mua NFT này không nắm copyright của cái bìa gốc, bản quyền vẫn nằm trong tay Economist. Trước khi chuyển số tiền bán được cho một tổ chức từ thiện, Economist để dành 16,67% lỡ sau này bị bắt đóng thuế thì có mà đóng.

Như thế thị trường NFT đang sôi động có lợi cho nhiều bên; từ bên tạo ra NFT để bán đến các nơi làm dịch vụ liên quan, sàn tổ chức các cuộc bán đấu giá, thậm chí ngân sách các địa phương. Chỉ có nhà đầu tư cuối cùng ôm các NFT không bán cho ai được nữa mới chịu lỗ nhưng nhà đầu tư này chưa xuất hiện.

Dĩ nhiên bên tin vào giá trị bền vững của các NFT sẽ nói bản chứng nhận duy nhất này là một hình thức xác lập quyền sở hữu rất độc đáo trong thế giới ảo. Trong thế giới kỹ thuật số, một bức tranh lưu ở dạng JPEG chỉ cần dùng lệnh copy là có thể sao chép thành nhiều bản; một bản nhạc gắn vào email gởi đi cho người khác sẽ thành bản sao không thể phân biệt được với bản gốc… NFT sẽ giải quyết vấn nạn sao chép này, kiểu như ai cũng có thể mua bản in bức tranh “Mona Lisa” nhưng chỉ có một bản gốc duy nhất treo ở Viện bảo tàng The Louvre. Vấn đề ở chỗ làm gì với quyền sở hữu này thì chưa được ai giải thích cho cặn kẽ.

Để thu hút nhiều người tham gia thị trường NFT, người ta nghĩ ra đủ cách để tạo NFT giá rẻ như trường hợp một người mua bức tranh nổi tiếng về cắt thành 10.000 mảnh để bán lẻ. Loic Gouzer là một người từng điều hành hãng đấu giá Christie’s, từng tổ chức cuộc đấu giá một bức tranh của Leonardo da Vinci với mức giá kỷ lục 450 triệu đô-la. Tháng Năm, ông này cùng một nhóm chuyên gia tiền mã hóa mua bức tranh “Love Is in the Air” của họa sĩ Banksy với giá 12,9 triệu đô-la. Giờ nhóm này có kế hoạch cắt nhỏ bức tranh thành 10.000 NFT để bán, mỗi mảnh giá 1.500 đô-la. Dĩ nhiên, bức tranh mua về vẫn còn đó; cái họ bán là giấy chứng nhận quyền sở hữu ảo nhưng bán từng phần của giấy chứng nhận này cho dễ kiếm người mua. Còn lập luận của Gouzer là muốn ai cũng đủ điều kiện tài chính tham gia thị trường sưu tầm mỹ thuật!

Ở hướng ngược lại, hồi tháng trước hàng ngàn người yêu thích tiền mã hóa đã cùng nhau góp tiền để tham gia đấu giá mua một bản in gốc Hiến pháp Mỹ. Họ góp bằng đồng Ether, đổi ra đô-la được 40 triệu nhưng sau rốt thua cuộc trước một nhà sưu tập tư nhân trả 43,2 triệu đô-la. Điều đáng nói là sau khi đấu giá thất bại, ban tổ chức đang gặp khó khăn khi trả tiền về cho người đóng góp vì “phí xăng dầu” quyên góp tiền rồi phí chuyển trả tiền qua blockchain Ethereum đã ăn hết 1,2 triệu đô-la. Tiền phí không tương quan với tiền gởi – gởi 100 đô-la chịu phí cũng gần như gởi 1 triệu đô-la nên có người quyên góp 170 đô-la bằng đồng ether phải tốn phí đến 50 đô-la, tiền mới về ban tổ chức. Nay để yêu cầu trả lại tiền, người góp thêm một lần nữa phải chịu phí giao dịch! Chừng đó đã thấy sự phi lý của đồng tiền mã hóa nói riêng và các NFT nói chung.

Với các doanh nghiệp tham gia thị trường NFT, nổi bật là các hãng giày, đầu tiên là Nike, sau đến Adidas đều tỏ ý sẽ sớm có sản phẩm giày NFT để dân chúng sử dụng trong không gian ảo metaverse. Sau giày ảo sẽ đến quần áo thể thao ảo, rồi đủ loại phụ tùng chơi thể thao trong thế giới ảo với lập luận sau khi con người có vật thế thân trên không gian ảo, cần mặc đồ, đi giày cho nhân vật thế thân này. Để bán giày NFT cho dễ các hãng này sẽ liên kết với nhiều bên như bên chuyên mua bán NFT, các ngôi sao thể thao, các sàn tiền mã hóa… Tuy nhiên có thể họ không tranh đua nổi với các startup nhạy bén như hãng Rtfkt do ba người bạn thành lập chuyên sản xuất giày thể thao dạng NFT, đã bán được nhiều giày ảo, mỗi đôi giá từ 3.000 đến 10.000 đô-la.

Vụ gây ồn ào trên thị trường NFT gần đây nhất là đạo diễn Quentin Tarantino tuyên bố sẽ đem 7 cảnh trước đây chưa từng công bố trong phim Pulp Fiction năm 1994 ra bán dưới dạng NFT. Ngay lập tức hãng phim Miramax đáp trả sẽ kiện vì họ đang giữ bản quyền phim này; rằng kế hoạch của Tarantino sẽ làm giảm giá trị các NFT mà hãng Miranmax đang ấp ủ.

Một điều rất lạ - mặc dù các NFT được mua bán bằng đồng Ether nhưng lúc nào người ta cũng tự động đổi ra đô-la như để “hù thiên hạ” bằng những mốc giá trên trời. Như NFT hình bìa tờ Economist giá gần nửa triệu đô-la chứ thật ra người mua trả 99,9 Ether và với sự sụt giá thê thảm của các đồng tiền mã hóa vào tuần trước, nay nếu đổi ra đô-la thì giá chỉ còn chừng 350.000 đô-la. Giả thử cơn sốt Bitcoin hay Ether bị xẹp bóng, giá các NFT cũng sẽ xẹp theo, bán xong chưa chắc đã đủ để đóng “phí xăng dầu”.

 

 

Box

Hiện nay cộng đồng mua bán NFT vẫn còn nhỏ, chừng 1 triệu người vì quá trình mua bán chúng còn nhiêu khê. Hầu hết các NFT đều được tạo ra trên blockchain Ethereum; mua bán chúng phải dùng đồng Ether. Có thể mua ether trên sàn Coinbase, sàn Binance hay dùng các ứng dụng mua bán chứng khoán như Robinhood.

Người mua phải tạo ví tiền mã hóa để chứa Ether, mua và nhận NFT, ví phổ biến nhất hiện nay là MetaMask, nằm ngay trên trình duyệt Chrome hay Firefox khi tải về thành một phần mở rộng. Ví dưới hình thức ứng dụng trên điện thoại di động hạn chế hơn nhiều. Có ví rồi phải kết nối nó với một chợ NFT như Foundation, OpenSea, SuperRare mới bắt đầu mua bán NFT.

Vì các NFT được duy trì trên các blockchain, giả thử các blockchain này giải tán, chưa ai biết số phận các NFT có giá từ vài ngàn đến vài chục triệu đô-la sẽ đi về đâu hay sẽ tan biến trong không gian ảo?

 

AI - hype and reality

  AI – cường điệu và thực tế Nguyễn Vạn Phú Bạn đôi lúc có cảm giác hơi hơi mặc cảm vì chung quanh đọc đâu cũng thấy bàn về AI (trí tuệ ...