Đứng xa nhìn... triết lý
giáo dục
Đối với khái niệm “triết lý giáo dục” tôi thường dùng cách
“kính nhi viễn chi” bởi dù được đào tạo trong ngành sư phạm và đã từng dạy học
hơn 10 năm, nếu có ai hỏi triết lý giáo dục Việt Nam là gì, tôi đành chịu,
không trả lời được. Và cũng chẳng biết triết lý giáo dục chi phối nền giáo dục của
nước này nước nọ cụ thể là gì.
Trong khi đó ở các nước, mỗi khi bàn đến cải cách giáo dục rất
hiếm khi nghe họ nói đến triết lý giáo dục, có chăng chỉ nói về mục đích, tầm
nhìn hay ý nghĩa của nền giáo dục mà họ muốn hướng đến.
Dù sao, cũng như mọi yếu tố khác trong giáo dục, “triết lý
giáo dục”, nếu có, không thể chỉ đến từ giới quản lý, hoạch định chính sách
giáo dục. Nó còn thể hiện ở người dạy và quan trọng hơn cả, ở người học.
Xin lấy ví dụ từ một môn học rất đơn giản để cùng hình dung.
Nếu chú ý, chúng ta sẽ thấy các trung tâm dạy lái xe thường bày cho người học
các mánh lới để làm bài thi đạt điểm cao (kiểu như có từ “đường bộ” thì chọn
câu 2, “đường sắt” thì chọn cách 5 mét...). Như vậy với họ, học lý thuyết chỉ
nhằm mục đích để thi cho đạt chứ đâu phải học lý thuyết để biết mà lái xe cho
đúng luật! Người học cũng vậy, thấy các mánh lới làm bài này đều nhớ nằm lòng,
chẳng cần biết ý nghĩa của nội dung họ đang học.
Cái mắc mứu ở đây là người soạn đề sát hạch chọn cách tạo ra
những cái bẫy để đánh đố người thi chứ không phải soạn đề như thế nào đó để
người học phải học thật sự chứ không học vẹt, học theo kiểu đối phó. Có những
câu hỏi mà các chọn lựa trả lời thật dài, giống nhau gần hết chỉ khác một hai
chữ then chốt. Vậy tại sao không hỏi như thế nào đó để làm nổi bật cái điều
then chốt muốn hỏi, tại sao phải tạo ra những đám mây mù hòng buộc người thi sập
bẫy đánh sai làm gì? Tôi có tham khảo đề thi của các nước và thấy, đa phần họ
hỏi rất cụ thể, thấy biển như thế này thì phải làm gì. Hỏi như vậy sẽ củng cố
phản xạ của người học. Còn hỏi “biển nào cấm máy kéo?” như ở Việt Nam là cách
hỏi lắt léo, mang tính đánh đố chứ không thực tiễn chút nào.
Cái triết lý giáo dục, nếu có, trong trường hợp này bị hỏng
từ trên xuống dưới.
Trở lại các môn trong bậc học phổ thông. Cái quan niệm học
để thi chi phối mọi hoạt động của thầy trò dù đó là thi học kỳ hay thi tốt
nghiệp. Sự say mê học để tiếp nhận kiến thức, học để rèn luyện kỹ năng, học để
tạo cho mình óc xét đoán, cách nhận định đúng sai hầu như không được đặt nặng. Môn
toán được biên soạn theo cách giới thiệu kiến thức và bài tập là những lắt léo
để bắt học sinh nhớ kiến thức – trong khi các hoạt động khác như dùng toán để
giải các vấn đề của cuộc sống đặt ra, rèn luyện cách tư duy lô-gích lại không
được chú trọng. Môn văn không nhằm giúp học sinh các kỹ năng diễn đạt bằng ngòi
bút hay cảm thụ được cái hay cái đẹp của văn chương; nó chỉ củng cố một số
khuôn mẫu được định sẵn, ép học sinh phải chấp nhận như chuẩn mực duy nhất
đúng. Môn tiếng Anh cũng coi nhẹ việc rèn luyện kỹ năng ngôn ngữ mà tập trung
vào các tiểu xảo chuyển đổi câu, biến đổi câu ngay chính người nói tiếng Anh
cũng ít khi dùng.
Sẽ có người nói, cái đó không phải là triết lý giáo dục. Nó
chỉ mới dừng lại ở mức độ gì gì đó, thấp hơn triết lý giáo dục nhiều.
Như đã nói ở trên, thiệt tình tôi không biết đó có phải là
triết lý giáo dục hay không. Nhưng dù phải dù không, tôi nghĩ cải cách giáo dục
phải bắt đầu từ những chuyện cụ thể, dễ hiểu, dễ thay đổi như thế. Lúc đó, liệu
có cần bàn đến triết lý giáo dục không nhỉ?
Hay là lúc đó mọi người mới chợt nhận ra “triết lý giáo dục”
thay đổi tùy theo từng cá nhân, là cách họ tiếp cận giáo dục, cách họ tin giáo
dục sẽ đóng vai trò như thế nào trong cuộc sống của họ (như người học) hay của học
sinh (khi họ là người dạy). Không thể áp đặt triết lý sống của một người cho
toàn xã hội thì, theo tôi, cũng không hề có một triết lý giáo dục cho tất cả.