Saturday, January 25, 2014

Giới thiệu một số bài mới viết

Giới thiệu một số bài mới viết

Hiểu nhầm TPP
Không biết do đâu mà nhiều người cứ nghĩ 1) TPP là một cái gì đó ngon lành, ký xong kinh tế Việt Nam sẽ phục hồi – chẳng khác gì cái kỳ vọng như thời tiền-WTO; 2) vì TPP là món ngon mà các nước giàu như Mỹ có thể trao cho Việt Nam cho nên đổi lại họ có quyền mặc cả chuyện này chuyện khác. Theo tôi là không phải. Vì sao?



Vì niềm tin vào hệ thống ngân hàng
Trong vụ án Huyền Như, các luật sư cố gắng chứng minh cô này lừa đảo của VietinBank. Theo mình thì một phần chứng cứ cho chuyện này nằm ở chỗ: Huyền Như giả chữ ký và con dấu của nhiều công ty và giả chữ ký con dấu như thế rõ ràng là nhằm lừa VietinBank chứ không lẽ lừa ai? Lừa VietinBank có nghĩa VietinBank mất tiền. VietinBank mất tiền có nghĩa trước đó VietinBank đã nhận tiền của người ta rồi. Nhận tiền của người ta mà không bảo vệ được, để bị lừa thì nay phải chịu trách nhiệm là đúng rồi chứ còn gì nữa.

Cái thứ hai, ngoài VietinBank, cũng phải nhắc đến trách nhiệm của Ngân hàng Nhà nước, vì sao không có phát ngôn nào chính thức về vụ án này trong khi dư luận đang có những lập luận cho thấy niềm tin vào hệ thống ngân hàng đang bị ảnh hưởng. Vì sao không chấn chỉnh VietinBank ngay?



Minh bạch thông tin ở đâu?
Có thể các bạn không tin nhưng thử vào trang web của Vinashin (nay mang tên SBIC) mới thấy một cách làm việc cẩu thả kinh khủng. Các mục “Báo cáo tài chính”, “Báo cáo thường niên”, “Thông cáo báo chí” đều trống trơn – thì thôi cũng là chuyện thường thấy ở các doanh nghiệp nhà nước.

Nhưng mục “Kế hoạch kinh doanh” và “Những điều cần biết” lại đem đi đăng toàn là văn bản pháp quy của các Bộ (Kế hoạch & Đầu tư, Tài chính, thậm chí Quốc phòng và Công an) hoàn toàn không có chút gì liên quan đến Vinashin là chuyện không thể hiểu nổi.



Tuesday, January 21, 2014

Tản mạn chuyện tiết kiệm

Tản mạn chuyện tiết kiệm

Câu chuyện ông lão ăn xin bị cướp mất 25 lượng vàng đầu tiên làm mọi người sửng sờ nhưng ngay sau đó là chê trách – lấy 25 lượng vàng này bán ra, gởi tiền vào ngân hàng thì ông cụ gần 90 tuổi này sẽ sống sung sướng trọn đời chứ đâu cần vất vả đi ăn xin nữa. Đây là một ví dụ mang tính cực đoan về chuyện nên hay không nên tiết kiệm; còn những câu chuyện khác không đến nỗi cực đoan như thế thì không dễ phán đoán đúng sai. Một cơ quan kỉ niệm 30 năm ngày thành lập, trong thư mời khách ghi rõ không nhận hoa mà đề nghị chuyển thành tiền cho một quỹ từ thiện cơ quan này đang tổ chức. Có người sẽ hoan nghênh tinh thần tiết kiệm này bởi những năm trước hàng trăm lẳng hoa sang trọng sau một ngày sẽ bị vứt bỏ rất lãng phí. Có người cho rằng nếu ai cũng ứng xử như cơ quan kia thì những người trồng hoa sẽ bán cho ai, ngành kinh doanh hoa sẽ đi về đâu, người đưa hoa sẽ làm việc gì...

Nói chung, khi bàn ở bình diện từng cá nhân, chuyện tiết kiệm hay chi tiêu đến đâu là vừa phải thì không khó để xác định. Làm ra tiền thì cứ tiêu miễn sao đừng vung tay quá đáng, theo kiểu vay mượn tiền để sắm iPhone cho oai. Thế nhưng ngay ở đây, khái niệm thế nào là hợp lý cũng thay đổi theo thời gian và hoàn cảnh. Ngày xưa không ai dám vay mượn những khoản tiền khổng lồ để mua nhà. Ai mua nhà mắc nợ sẽ bị chê chứ không ai thán phục cả. Nhưng cứ thử nghĩ, cặm cụi làm lụng vất vả suốt 40 hay 50 năm để dành dụm mua một căn hộ thì trong suốt 40 hay 50 năm đó, người dành dụm sẽ sống ở đâu; trong khi cứ mua nhà ở cho thoải mái, từ từ rồi trả nợ như kiểu trả tiền thuê nhà hàng tháng. Thế nên ngày nay chuyện vay trước mua trả góp sau những món đắt tiền như nhà cửa, xe cộ, máy móc vẫn nằm trong ngưỡng hợp lý nếu khoản tiền trả góp hàng tháng không vượt quá thu nhập. Tiêu dùng trước, chi trả sau là cách sống rất bình thường ở nhiều nước phát triển nhưng vẫn chưa được phổ biến ở nước ta.

Còn trên bình diện cả nền kinh tế, cái quán tính thắt lưng buộc bụng vẫn mạnh hơn nhiều. Thế hệ người viết bài này ngày xưa được dạy dỗ rằng Nhật Bản là tấm gương sáng khi người dân sau chiến tranh đã cùng nhau thắt lưng buộc bụng để dành hết mọi nguồn lực cho xây dựng và phát triển kinh tế. Thế nhưng hàng chục năm sau, bây giờ nhiều nhà kinh tế lại nói dân Nhật tiết kiệm quá mức, tiết kiệm nhiều là gây hại cho nền kinh tế; rằng sự trì trệ của kinh tế Nhật Bản trong suốt chục năm qua là do trước đó dân Nhật không chịu chi tiêu! Nghĩ cũng hợp lý: ai nấy đều làm lụng, không ai tiêu thì làm ra của cải để cho ai. Nếu hàng làm ra không ai mua thì kinh tế sẽ trì trệ, lúc đó thu nhập sẽ giảm, lại càng phải thắt lưng buộc bụng như một vòng luẩn quẩn. Xuất khẩu như một giải pháp là điều dân Nhật ngày xưa và dân Trung Quốc ngày nay đang làm – ráo riết nữa là đằng khác. Nhưng bán hàng cho cả thế giới để làm gì – ôm một mớ đô-la về - liệu đó có phải là sự thịnh vượng hay lại là món nợ phải gánh, phải lo toan. Chính vì thế Trung Quốc đang tìm cách nâng sức mua của người dân lên để chuyển đổi nền kinh tế từ chỗ phụ thuộc vào xuất khẩu như động lực tăng trưởng đến chỗ tăng trưởng nhờ tiêu dùng như nước Mỹ.

Thế cho nên khoan vội nói chuyện lãng phí hay tiết kiệm khi chưa nghĩ cặn kẽ đến dây chuyền tác động của một hành vi, một hoạt động. Hollywood làm một bộ phim tốn vài trăm triệu đô-la, chiếu trong vài tuần là hết, liệu như thế có lãng phí không? Có ai lập luận sao không để mấy trăm triệu đô-la đó xây vài chục cái bệnh viện cho dân nghèo? Dĩ nhiên với công nghệ điện ảnh thì không ai cắc cớ đặt câu hỏi như thế cả bởi ngành điện ảnh tạo công ăn việc làm cho cả một cộng đồng lớn lao và cung cấp thức ăn tinh thần cho hàng triệu triệu con người. Cũng không ai đặt vấn đề vì sao từ thập niên 1990 đến nay con người chạy đuổi theo công nghệ thông tin với hàng triệu máy tính dùng một phần chức năng, một phần vòng đời rồi vứt bỏ thay bằng máy mạnh hơn. Đó là sự lãng phí cần thiết để công nghệ đạt được những bước tiến khổng lồ với chi phí chia đều cho mọi người cùng san sẻ.

*                             *                             *

Cuối cùng hãy dùng góc độ tiết kiệm để nhìn vào một vấn đề giáo dục đang nóng: bỏ thi “ba chung” để giao quyền tự chủ trong tuyển sinh cho các trường đại học. Ngay sau khi chủ trương này được giới thiệu, lập tức có hai luồng ý kiến khác nhau. Bên đồng tình cho rằng các trường đại học cần phải được quyền tuyển chọn sinh viên cho mình một cách chủ động trong khi các kỳ thi “ba chung” (chung đề thi, chung ngày thi, dùng chung kết quả để xét tuyển) không đáp ứng được yêu cầu này. Bên phản đối lại nghĩ thi riêng từng trường sẽ rất bát nháo, trường dễ trường khó, làm nảy sinh tệ nạn dạy thêm, khó bảo mật đề thi…

Trong kinh tế có khái niệm “lợi thế nhờ quy mô” (economies of scale), đại khái nếu số lượng sản phẩm tăng lên thì chi phí bình quân trên mỗi sản phẩm sẽ giảm xuống. Ví dụ một tờ báo mỗi số chỉ in 1.000 bản thì giá thành một bản sẽ rất cao trong khi in 100.000 bản, giá thành mỗi tờ bán ra sẽ giảm mạnh. Thử nghĩ mỗi trường đại học hay cao đẳng đều phải tổ chức có người ra đề, in ấn, bảo mật… thì sự tốn kém sẽ nhân lên hàng trăm lần bởi trường nào cũng phải bỏ ra từng ấy chi phí. Nay nếu có một tổ chức đứng ra biên soạn một bộ đề mà bất kỳ trường nào cũng có thể sử dụng, ngay lập tức chi phí sẽ giảm đi rất nhiều nhờ được chia đều ra, mỗi trường gánh một ít mà thôi.


Vậy, thay vì bỏ “ba chung” tại sao không nghĩ đến chuyện chỉ bỏ cái chung cuối cùng mà thôi. Tức vẫn thi đề chung và cùng một ngày nhưng các trường sẽ tuyển sinh riêng và kết quả thi chung đó chỉ là một trong những tiêu chí mà trường sử dụng để xét tuyển. Vấn đề là Bộ Giáo dục & Đào tạo không còn là nơi ra đề thi nữa bởi nhiệm vụ của Bộ là quản lý nhà nước chứ đâu phải làm chuyên môn. Sẽ có những trung tâm, thoạt tiên là trực thuộc Bộ, chuyên lo biên soạn đề thi cho các trường dùng chung. Sau này dần dần công việc “khảo thí” như vậy cũng có thể “xã hội hóa” để các trường ngồi lại, cùng tìm giải pháp để tổ chức, miễn sao tận dụng được “lợi thế nhờ quy mô” nói trên. Đó chính là tiết kiệm đúng nghĩa.


Bổ sung: Đây là nhận xét của anh Lê Hồng Giang về đề tài này (bên dưới có link vào Google Plus của anh Giang để mọi người tham khảo):

Nhân anh Phú viết về saving, tôi nhớ đến Solow Growth model, một trong những mô hình tăng trưởng đầu tiên của kinh tế học. Mặc dù mô hình này rất đơn giản (nhưng vẫn giúp cho Robert Solow đoạt giải Nobel Kinh tế) và sau này đã có rất nhiều growth model khác hiện đại hơn, có thể nói cho đến nay Solow Growth model vẫn có ảnh hưởng nhiều nhất vào tư duy chính sách của nhiều quốc gia và các tổ chức quốc tế.

Tóm tắt mô hình này một chút cho những bạn ngoài ngành. Một nền kinh tế có năng lực sản xuất và tỷ lệ tiến kiệm nhất định sẽ dần dần tích tụ capital (thông qua đầu tư từ tiền tiết kiệm) đến khi lượng capital trên đầu người (ký hiệu là k) tiệm cận đến một ngưỡng nhất định (ký hiệu là k*). Ở giai đoạn đầu phát triển khi k thấp hơn k* rất nhiều, tốc độ tăng trưởng của k và GDP tương đối cao nhưng GDP trên đầu người thấp. Đến khi k tiệm cận k* tăng trưởng sẽ hội tụ đến tốc độ tăng trưởng của các nước phát triển.

Thuật ngữ growth convergence mà nhiều người nhắc đến có nguồn gốc từ mô hình này. Ví dụ thực tế có thể thấy trường hợp Nhật bản hay gần đây hơn là Hàn quốc có tốc độ tăng trưởng giảm dần khi tổng lượng capital trong nền kinh tế đủ cao. TQ và VN đang trên con đường tích tụ tư bản nên tốc độ tăng trưởng sẽ còn cao trong một thời gian nữa.

Khi k nhỏ hơn k* nhiều thì tốc độ tăng trưởng của k và GDP phụ thuộc vào tỷ lệ saving, saving càng cao thì tốc độ tích luỹ tư bản càng nhanh và do vậy GDP sẽ tăng nhanh. Nói cách khác tốc độ convergence sẽ cao nếu tỷ lệ saving ban đầu cao, điều này cũng đúng cho Nhật và HQ. Đến khi k tiệm cận k* thì tốc độ tăng chỉ còn phụ thuộc vào tăng năng suất dựa vào công nghệ mới, tỷ lệ saving không còn ý nghĩa nữa mặc dù saving càng cao thì k* càng cao. Tuy nhiên k* cao không hẳn đã tốt vì lúc đó tiêu dùng có thể không ở mức tối ưu. Solow Growth model giải ra được qui tắc vàng (golden rule) cho saving, vừa đủ để đảm bảo k* mà nền kinh tế vẫn có mức tiêu dùng tối ưu.

Quay lại thắc mắc của anh Phú: tiết kiệm hay tiêu dùng mới giúp kinh tế tăng trưởng? Solow Growth model trả lời rằng trong giai đoạn convergence (từ nước nghèo thành nước giàu) tiết kiệm có vai trò quan trọng. Tuy nhiên khi đã tích tụ tư bản đến một mức nào đó, tiến bộ công nghệ mới là điều quyết định và tỷ lệ tiết kiệm cao chưa hẳn đã tốt.




Monday, January 20, 2014

Tiếng Anh trong WTO

Tiếng Anh trong WTO

Trích lại bài này từ cuốn “Tám chuyện tiếng Anh” nhân mọi người đang nói về TPP và chuyện thuế.

Nói đến WTO trước hết là nói đến tổ chức tiền thân của nó - GATT, viết tắt từ General Agreement on Tariffs and Trade (Hiệp định chung về thuế quan và thương mại). Thế nhưng vì sao từ thuế có lúc được dịch là tariff, có lúc là duty, có lúc là tax?

Tariff chỉ các loại thuế nhập khẩu, thu ở cửa khẩu trong khi tax chỉ các loại thuế thu trong nội địa. Duty có thể dùng thay cho hai từ này nhưng có một khác biệt nhỏ - duty chỉ các loại thuế đánh lên hàng hóa, tài sản, giao dịch chứ không đánh lên người. Vì thế người ta nói import dutiesincome tax, chứ không dùng lẫn lộn.

Ví dụ, báo chí có lần tường thuật phát biểu của một quan chức và nói: “He was careful to explain that “duty-free” does not mean “tax-free” as far as a country’s internal consumption taxes are concerned”. Như vậy sản phẩm “duty-free” được miễn thuế khi nhập khẩu nhưng có thể phải chịu thuế VAT khi bán lại cho nên mới có chuyện nó không phải là “tax-free”. Từ “thuế” còn có thể gây khó khăn khi dịch là vì cùng một loại thuế, các nơi lại gọi khác nhau. Ví dụ, thuế giá trị gia tăng ở nước ta và châu Âu gọi là VAT (value-added tax) nhưng ở Mỹ gọi là sales tax, một số nước khác như Úc gọi là goods and services tax (GST); thuế tiêu thụ đặc biệt mình thường dịch là special consumption tax nhưng thiên hạ thích nói excise tax hơn. Chú ý tariff còn có nghĩa biểu giá như giá điện, giá thuê nhà.

Sự khác biệt khá tinh tế như trên thật ra xuất hiện ở nhiều từ chúng ta thường dùng mà không để ý. Ví dụ, khấu hao có hai từ amortizationdepreciation; từ đầu dùng cho khấu hao tài sản vô hình, từ sau dùng cho khấu hao tài sản hữu hình. Công ty “con” cũng có vài từ, trong đó affiliate chỉ loại công ty mà công ty mẹ có đầu tư vốn nhưng không chiếm tỷ lệ kiểm soát còn với subsidiary thì công ty mẹ sở hữu cổ phần đa số, thậm chí lên 100% gọi là wholly owned subsidiary. Vì thế, để phân biệt hai loại hình, công ty hạch toán độc lập và công ty hạch toán phụ thuộc nên dùng từ subsidiarydivision cho dễ hiểu.

Trở lại chuyện WTO, một trong những nguyên tắc cơ bản của thương mại thế giới là most-favored-nation (MFN) thường được dịch là tối huệ quốc. Tài liệu chính thức của WTO giải thích: “Under the WTO agreements, countries cannot normally discriminate between their trading partners. Grant someone a special favour (such as a lower customs duty rate for one of their products) and you have to do the same for all other WTO members”. Theo tinh thần này, tối huệ quốc có nghĩa là không phân biệt đối xử, chứ đâu có ưu đãi gì. Vì thế, chính WTO cũng phải thừa nhận: “This sounds like a contradiction. It suggests special treatment, but in the WTO it actually means non-discrimination - treating virtually everyone equally”. WTO nói thêm cho rõ là sự đối xử đặc biệt này chỉ có nghĩa một nước thành viên dành sự đối xử “tốt” nhất cho một nước thì tự động các nước còn lại cũng sẽ hưởng đặc quyền này. Vì thế ngày nay nhiều người thích dùng từ “normal trade relations” (quan hệ thương mại bình thường) hơn.

Nhân nói chuyện “các nước thành viên”, chúng ta đều biết có một số vùng lãnh thổ tuy là thành viên WTO nhưng không được xem là nước. Vì vậy, một tài liệu của WTO thường có phần “ghi chú” nói rõ: “The words country and nation are frequently used to describe WTO members, whereas a few members are officially customs territories, and not necessarily countries in the usual sense of the word”.

Nguyên tắc cơ bản thứ nhì của WTO là “national treatment” (đối xử quốc gia). Cái này có nghĩa hàng hóa, dịch vụ... của nước khác khi đã vào thị trường một nước phải được đối xử bình đẳng như hàng hóa, dịch vụ trong nước. Lưu ý, WTO có khẳng định: “National treatment only applies once a product, service or item of intellectual property has entered the market” và cho ví dụ: “Therefore, charging customs duty on an import is not a violation of national treatment”.

Hai nguyên tắc cơ bản này và một số ít nguyên tắc nữa là nền tảng để WTO hoạt động chứ bản thân WTO không là cái gì cả. Ngay chính WTO, trong một tài liệu chính thức, đã kể câu chuyện nửa đùa nửa thật sau để định nghĩa mình là gì.

Participants in a recent radio discussion on the WTO were full of ideas. The WTO should do this, the WTO should do that, they said. One of them finally interjected: “Wait a minute. The WTO is a table. People sit round the table and negotiate. What do you expect the table to do?” (interject ở đây là nói xen vào, bỗng thốt lên).

Cho nên nói WTO là cái bàn hóa ra cũng không sai! Hay như một thượng nghị sĩ Mỹ có lần phát biểu đùa rằng GATT là “Gentlemens Agreement to Talk and Talk!” còn WTO thì chuyển sang “Woman Talk Organization”.  


------
Đường link đến các sách ebook vừa tái bản:

Tám chuyn tiếng Anh (Smashwords), (Amazon), (Alezaa)
Ti
ếng Anh lý thú (Smashwords), (Amazon), (Alezaa) 
Chuy
n ch & nghĩa (Smashwords), (Amazon), (Alezaa)


Wednesday, January 15, 2014

Muôn mặt mạng xã hội

Muôn mặt mạng xã hội

Với sự dễ dàng cất tiếng, muốn ẩn danh cũng được, nêu rõ danh tính cũng hay, ai nấy đều tưởng sẽ có một không khí tranh luận sôi nổi, thẳng thắn trên các mạng xã hội khi các ý tưởng sẽ có cơ hội cọ xát, trao qua đổi lại và cuối cùng ý tưởng nào thuyết phục nhất sẽ chiến thắng! Không hề - trái ngược với trông đợi của nhiều người, Internet nói chung, các diễn đàn và các mạng xã hội nói riêng là môi trường thuận lợi cho tâm lý đám đông khi con người ta thấy an toàn hơn khi nấp sau đám đông, hùa theo đám đông một cách vô thức. Lúc đó sự tỉnh táo phải nhường bước cho làn sóng bầy đàn, cuốn phăng mọi lý trí lại dễ chao qua đảo về, bất kể chân lý. Dĩ nhiên bức tranh này đúng với đa số chứ không phải đúng với tất cả.

Dân chủ trên mạng? – Đừng hòng!

Lúc Justine Sacco, giám đốc truyền thông của hãng InterActiveCorp gởi một tin nhắn dạng tweet: “Sắp đi châu Phi. Hy vọng tớ không bị dính AIDS. Đùa thôi. Tớ da trắng mà!” rồi lên máy bay, cô ta không ngờ mẩu tin này làm cô mất việc và quan trọng hơn bị “lăng trì” trên cộng đồng mạng. Sự phẫn nộ của dân trên mạng vì câu nói mang tính phân biệt chủng tộc, kỳ thị, ngu ngốc này thật dữ dội, Sacco và người thân của cô bị đe dọa, ngay cả bất kỳ người nào chỉ cần nói, chuyện đâu có gì mà ầm ĩ là bị ném đá tơi bời. Những lời chửi bới kiểu ả này đáng bị tra tấn, bắn bỏ và cho người bị AIDS hiếp đến chết lan rộng suốt cả tuần lễ sau đó. Câu nói của Sacco đáng bị chê trách nhưng cái không khí đòi “xử” của đám đông cũng ghê rợn không kém và ghê rợn hơn, đó là phản ứng thường thấy trên mạng.

Thông thường con đường hình thành nên một tâm lý đám đông sẽ như thế này: thoạt tiên trước một vấn đề gây tranh luận nào đó, sẽ có những ý kiến khác nhau nhưng chủ nhân của ý kiến nguyên thủy sẽ dùng quyền “ngăn chận” (block) hay “hủy kết bạn” (unfriend) những người phản đối. Dần dà quanh anh ta sẽ chỉ còn những người cùng ý kiến nhưng anh ta sẽ lầm tưởng ý kiến của anh ta được mọi người chấp nhận, tán đồng. Ảo tưởng này sẽ ngày càng lớn dần, tạo ra những thái cực – hoặc theo ta, hoặc đi chỗ khác chơi. Tình trạng tạo ra màng lọc “kiểm duyệt” kiểu như thế sẽ không còn chỗ cho những tranh luận tỉnh táo, những trao đổi sòng phẳng nữa. Đám đông tiền hô hậu ủng như thế sẽ tạo ra tâm lý ngại nói khác mọi người vì không ai muốn chuốc vào mình sự phiền toán bị chỉ trích dù trên không gian ảo. Thế là hoặc họ bỏ đi để tụ tập với nhóm mình có nhiều điểm chung hoặc im lặng theo cách đồng thuận ngầm. Ngay cả khi ở trong nhóm có điểm chung, họ cũng dần dà không lên tiếng phản đối những điểm dị biệt còn sót lại để được chấp nhận ở trong nhóm. Hi vọng gì trong một bầu không khí như vậy?

Một trong những đặc điểm của nền giáo dục hiện đại là tập cho con người có thói quen tò mò, quan sát, nhận định đúng sai với đầu óc phê phán. Người có học không bao giờ dễ dãi chấp nhận mọi chuyện được trình ra cho họ mà phải sàng lọc, phán đoán với tư duy độc lập. Đáng tiếc tình hình bầy đàn trên các mạng xã hội làm mai một kỉ năng này đến nỗi con người ngày càng lười suy nghĩ, sẵn sàng ăn thức ăn nấu sẵn theo nghĩa bóng. Họ không thèm kiểm chứng thông tin, không thèm suy nghĩ xem lập luận được đưa ra có lô-gich không, có thuyết phục không. Các câu nhận xét hà dùa ăn theo ngày càng phổ biến.

Có lẽ ai cũng biết văn hóa là những giá trị, thái độ và hành vi giao tiếp được đa số thành viên của một nhóm người cùng chia sẻ và phân định nhóm này với nhóm khác. Con đường hình thành một nét văn hóa mới là con đường chia sẻ những giá trị được chấp nhận rộng rãi. Vì vậy cái đáng lo là hiện tượng bầy đàn trên mạng dần dà sẽ được chấp nhận rộng rãi, trở thành một giá trị văn hóa thì nó sẽ tác động ngược trở lại các thế hệ sau này.

Nhìn từ phía người bị đám đông “lăng trì” trên mạng xã hội, có thể họ đáng bị phê phán, chê trách nhưng chắc chắn không phải tất cả đều đáng bị “xử tử”. Nhưng trong đa phần trường hợp, họ sẽ biến mất, không còn dấu vết. Các tài khoản Facebook, Twitter, blogs... dễ dàng tan vào khoảng trống hư vô – và như thế nó tương đương với án “xử tử hình” một con người ảo.

Nhìn từ góc độ xã hội, tác động của tâm lý đám đông lên ứng xử của tòa án, chính quyền, công luận và báo chí là có thật, rất thật nữa là đằng khác. Đã có những trường hợp án xử nặng hơn vì sức ép từ đám đông trên mạng xã hội; nhân viên bị sa thải; doanh nghiệp phải cho người điều hành từ chức – tất cả để xoa dịu đám đông ảo. Điều lạ là một khi nhân danh công lý, từng cá nhân trong đám đông ảo đó có thể có những hành vi quá khích gấp bội lần hành vi đang bị lên án nhưng không ai xem đó là chuyện quan trọng cả.

Ứng xử thế nào?

Với một bối cảnh như thế, doanh nghiệp nên ứng xử như thế nào một khi tên tuổi họ được nhắc đến trên mạng xã hội? Rất dễ chứng kiến một công ty tên tuổi bỗng một hôm bị một khách hàng không hài lòng chê bai, rồi bạn bè của khách hàng này mỗi người một chi tiết, tất cả hùa vào, tạo một luồng dư luận không hay ho gì về công ty đó.

Thiết nghĩ phản ứng đầu tiên là phân biệt cuộc sống thật và cuộc sống ảo. Câu chuyện đang diễn ra trên mạng xã hội thì nên gói gọn nó trên mạng xã hội, không nên sử dụng báo chí chính thống để phân bua, giải thích làm gì. Doanh nghiệp nên có sẵn sự hiện diện trên mạng xã hội và lúc này là lúc sử dụng sự hiện diện đó. Có thể dùng mạng lưới của chính mình trên mạng xã hội để đối phó, đáp trả các cáo buộc sai lệch nhưng nên giữ thái độ “trên cơ” – có nghĩa không đôi co tiểu tiết, có thông điệp rõ ràng và bám vào thông điệp đó, không nhảy qua tình tiết mới làm rối tung mọi chuyện lên.

Với công ty lớn, nên có nhân viên chuyên trách theo dõi thông tin trên các mạng xã hội lớn. Bởi phản ứng nhanh khi dư luận chưa lan rộng lúc nào cũng có hiệu quả hơn là đối phó khi chuyện đã như đám cháy rừng. Trái với thế giới thật, không nên đe dọa sử dụng luật sư hay luật pháp trên không gian ảo mà nên duy trì một óc khôi hài nhẹ nhàng, thậm chí dùng cách đồng tình để dập tắt những đòn tấn công dồn dập.


Quan trọng nhất là phải hiểu quy mô của vấn đề. Với nhân viên được giao để theo dõi một mảng hoạt động nào đó, anh ta rất dễ nhầm tưởng cả thế giới đang dồn mắt vào câu chuyện liên quan đến công ty của anh. Thực tế, thế giới ảo rộng mênh mông, mọi người có những mối quan tâm rất rộng, bước ra khỏi vòng ảnh hưởng mà công ty đang dính vào, người nhân viên có thể rất ngạc nhiên khi biết hầu như chẳng ai quan tâm. Thế mới gọi là thế giới ảo!

Tuesday, January 14, 2014

Chia đều hay chia không đều?

Chia đều hay chia không đều?

Có lẽ đã đến lúc đừng quá chú trọng GDP năm này tăng trưởng bao nhiêu, GDP đầu người nay đã lên đến chừng nào. Nó có thể không nói lên điều gì cả nếu chênh lệch giàu nghèo ngày càng giãn ra.

Mỗi lần nghe nói GDP đầu người của dân Việt Nam năm rồi đã lên đến 1.960 đôla Mỹ, người viết bài này lẩn thẩn tự nhẩm tính: một hộ gia đình có năm người ở nông thôn, tính ra mỗi năm sẽ có thu nhập gần 10.000 đôla Mỹ, tức trên 210 triệu đồng.

Khả thi không, chuyện thu nhập bình quân một hộ ở nông thôn lên gần 20 triệu đồng/tháng? Thật khó hình dung quá. Hay GDP đầu người ở TP.HCM năm 2013 đã lên đến 4.500 đôla Mỹ. Một gia đình ba người sẽ có thu nhập chừng 23 triệu đồng/tháng! Cũng khó hình dung quá.

Thôi thì cứ lấy một cái ví dụ như thế này cho rõ. Một dãy phố có năm nhà, thu nhập bốn nhà đầu tiên sàn sàn nhau, cỡ 10 triệu đồng/tháng; riêng nhà thứ năm là một đại gia ngành xuất khẩu, thu nhập cả 1 tỉ đồng/tháng. Có thể nói thu nhập bình quân của dãy phố này là 208 triệu đồng/tháng được chăng (1 tỉ cộng 40 triệu chia cho 5)? Không hề. Bốn nhà đầu tiên sẽ cười vào mũi bạn, nói thống kê kiểu trên trời.

Chính vì vậy mỗi khi nói đến thu nhập hộ gia đình, người ta thường dùng khái niệm thu nhập hộ gia đình trung vị (median household income), tức chia đôi số hộ làm hai rồi lấy thu nhập của hộ ở giữa, chứ không tính theo kiểu bình quân nữa. Một dãy phố có năm hộ, thu nhập hằng tháng lần lượt là 10 triệu, 35 triệu, 40 triệu, 47 triệu và 250 triệu đồng thì thu nhập hộ trung vị là 40 triệu đồng (còn tính theo kiểu bình quân sẽ có thu nhập bình quân lên đến 76,4 triệu đồng).

Dùng khái niệm thu nhập hộ gia đình trung vị so sánh với thu nhập bình quân đầu người sẽ cho thấy chênh lệch giàu nghèo lên đến mức độ nào (thật ra thu nhập bình quân đầu người không chỉ gồm thu nhập của người lao động mà trong đó còn thêm những yếu tố khác, thu nhập của người lao động chỉ chiếm chừng một nửa).

Ví dụ GDP đầu người tính theo ngang bằng sức mua của Singapore năm 2012 lên đến trên 60.000 đôla Mỹ, nhưng theo khảo sát của Gallup (một tổ chức thăm dò dư luận chuyên nghiệp của Mỹ) thì thu nhập đầu người trung vị của Singapore (cũng tính theo ngang bằng sức mua) chỉ là 7.345 đôla Mỹ và thu nhập hộ gia đình trung vị ở nước này là 32.360 đôla Mỹ.

Thử hình dung như thế, cái phần trên của dân cư nước này sẽ có thu nhập lớn chừng nào và mức nghèo khó (của các hộ ở phần dưới) ở đảo quốc này không phải là nhỏ. Theo một số ước tính nhân tranh luận có nên đặt ra ngưỡng nghèo ở Singapore hay không thì ước chừng một phần tư dân Singapore đang sống dưới mức nghèo khó. Dĩ nhiên ngưỡng này là khá cao so với các nước đang phát triển (chừng 900 đôla Singapore/người/tháng).

Nếu đừng dùng từ “nghèo” dễ gây hiểu nhầm, số liệu thống kê chính thức cho thấy chừng 26% lao động Singapore nhận ít hơn 1.500 đôla Singapore/tháng, trong khi mức lương bình quân ở nước này là 3.000 đôla Singapore/tháng. Thử hình dung trong một đất nước mà thu nhập đầu người danh nghĩa là trên 52.000 đôla Mỹ/năm mà đến một phần tư chỉ hưởng mức lương chưa đến 15.000 đôla Mỹ/năm sẽ thấy sự chênh lệch thu nhập cao như thế nào.

Trở lại Việt Nam, để tránh việc khó hình dung nói ở đầu bài, phải đi tìm số liệu thu nhập hộ gia đình trung vị tương tự như trường hợp Singapore.

Trước hết phải nói ngay là theo Quỹ Tiền tệ quốc tế, thu nhập đầu người tính theo ngang bằng sức mua của Việt Nam là trên 3.700 đôla Mỹ chứ không chỉ là 1.750 đôla là thu nhập đầu người danh nghĩa. Nói nôm na do giá cả hàng hóa và dịch vụ ở nước ta còn thấp so với ở Mỹ nên sức mua (ví dụ ổ bánh mì hay hớt tóc) ở Việt Nam còn cao hơn nhiều nơi khác (1.750 đôla ở đây có sức mua bằng 3.700 đôla ở Mỹ).

Theo khảo sát của Gallup vừa công bố vào tháng trước, thu nhập đầu người trung vị của Việt Nam (tính theo ngang bằng sức mua) là 1.124 đôla Mỹ và thu nhập hộ gia đình trung vị là 4.783 đôla Mỹ (con số trung vị của cả thế giới lần lượt là gần 3.000 đôla và gần 10.000 đôla).

Chuyện Việt Nam còn nghèo so với thế giới thì ai cũng biết và ngay cả chênh lệch giàu nghèo bên trong Việt Nam là lớn thì ai cũng hay. Nhưng dù sao đây là những con số đáng tham khảo. Gallup cho biết họ thu lượm thông tin từ năm 2006-2012 ở 131 quốc gia, mỗi nước phải khảo sát hơn 2.000 người để tính toán đưa ra những con số này.

Thế thì Tổng cục Thống kê có tính toán con số này không? Tìm kiếm các nguồn niên giám thống kê các năm, không thấy con số “thu nhập hộ gia đình trung vị” như khái niệm thế giới thường dùng. Chỉ có khái niệm “thu nhập bình quân đầu người một tháng”, năm 2012 là 2 triệu đồng (hơn 3 triệu ở thành thị và hơn 1,5 triệu đồng ở nông thôn). Có lẽ đây chính là “thu nhập đầu người trung vị” vì tính ra mỗi năm chỉ chừng 1.143 đôla Mỹ.

Báo chí các nước vào dịp đầu năm ít khi đưa tin GDP của nước họ tăng bao nhiêu phần trăm. Nếu có thì họ thường gắn với chuyện “thu nhập hộ gia đình trung vị” tăng hay giảm để phân tích mức sống của người dân nói chung có cải thiện gì trong năm qua hay không.

Trong tuần lễ cuối cùng của năm, báo chí Mỹ nhấn mạnh một khảo sát cho thấy thu nhập hộ gia đình trung vị thực của nước này vẫn còn thấp hơn năm 2009 khi ông Obama nhậm chức chừng 4,4% (đối với hộ người da đen thì mức sụt giảm còn cao hơn, gần 11%).

Trong cùng thời gian đó GDP tăng 10%, lợi nhuận của khối doanh nghiệp tăng 50% và chỉ số S&P500 tăng đến 77%. Nhiều nhà bình luận dùng các con số này để nói thật ra với dân Mỹ, khủng hoảng vẫn còn hiển hiện rất rõ bất kể GDP có tăng như thế nào chăng nữa.


Vì vậy có lẽ đã đến lúc đừng quá chú trọng GDP năm này tăng trưởng bao nhiêu, GDP đầu người nay đã lên đến chừng nào. Nó có thể không nói lên điều gì cả nếu chênh lệch giàu nghèo ngày càng giãn ra. Nên tìm hiểu thu nhập hộ gia đình trung vị có tăng được đồng nào không bởi đó là mức tăng nhiều người sẽ cảm thấy rõ rệt nhất.

Saturday, January 11, 2014

Thể chế là gì?

Thể chế là gì?

Đã dấn thân vào thương trường, có lẽ doanh nhân nào cũng đã biết hay dần dà rồi cũng biết mọi luật lệ, quy định, phép tắc, tập tục chi phối hoạt động kinh doanh. Ví dụ có lẽ ai cũng biết Hiến pháp mới được thông qua quy định kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo (vì thế doanh nghiệp tư nhân mà thấy hơi bị chèn ép trong vay vốn, tìm đất, tìm dự án cũng hiểu được tại sao); ai cũng rõ cha làm chủ tịch hội đồng quản trị một ngân hàng thì con không được làm tổng giám đốc cùng ngân hàng đó dù là ngân hàng tư nhân (Luật các tổ chức tín dụng cấm).  Ngay cả chuyện nội quy nhiều doanh nghiệp quy định chuyện bảo mật thì nhân viên cũng phải biết và tuân thủ; còn trong môi trường kinh doanh nước ta, quan hệ đóng một vai trò quan trọng, ảnh hưởng lên sự thành bại của cả một dự án là chuyện ai cũng hiểu.

Tất cả những luật lệ, quy định, phép tắc, tập quán nói trên và nhiều cái khác nữa hình thành nên “thể chế kinh tế”. Thể chế có thể là tốt mà cũng có thể là xấu, gây cản trở cho bước đường phát triển. Thể chế có thể là luật lệ viết ra thành văn bản mà cũng có thể là những quy luật bất thành văn nhưng chi phối mọi mặt của hoạt động kinh doanh.

Nếu nhớ lại, đã có thời nước ta có những quyết sách theo kiểu mỗi huyện là một pháo đài kinh tế, phải phát triển đủ mọi lãnh vực, từ công nghiệp đến nông nghiệp, từ dịch vụ đến tiểu thủ công nghiệp… Một thể chế như thế sẽ dẫn tới tình trạng ngăn sông cấm chợ, không cho hàng hóa thông thương, từng làm kiệt quệ sản xuất của cả nước. Cũng một thời mọi người nằm lòng câu nói, ưu tiên phát triển công nghiệp nặng trên cơ sở phát triển công nghiệp nhẹ một cách hợp lý. Đó chính là một nền tảng mang tính thể chế và đây là thể chế tiêu cực, làm nguồn lực của xã hội bị rót vào những dự án không tưởng. Ngược lại, chính chủ trương khoán 10 trong nông nghiệp, mở cửa cho đầu tư nước ngoài, khuyến khích doanh nghiệp tư nhân lại là những cải cách thể chế mang tính đột phá, tạo ra nền tảng cho một môi trường kinh doanh lành mạnh hơn bội lần.

Tuy nhiên, hiện nay mỗi khi nói đến thể chế và đổi mới thể chế, điều nhiều người nghĩ đến là thể chế chính trị bởi chính thể chế chính trị sẽ chi phối ngược trở lại thể chế kinh tế trong một mối quan hệ bao trùm. Cũng có những hiểu nhầm cho rằng đổi mới thể chế chính trị là một điều gì có nhạy cảm trong khi thực ra thể chế chính trị cũng bao gồm các luật lệ, quy định, phép tắc, tập tục trong sinh hoạt chính trị của mỗi nước và sinh hoạt chính trị đúng nghĩa là quá trình hoàn thiện những luật lệ quy tắc này buộc chúng phục vụ trở lại cho dân sinh, dân kế. Đi từ “chuyên chính vô sản”, “đấu tranh giai cấp” đến chỗ nhà nước pháp quyền, thượng tôn pháp luật chính là đổi mới thể chế chính trị.

Trong một bài viết đầu năm 2014, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã nói khá rõ và đầy đủ về thể chế chính trị và thể chế kinh tế ở Việt Nam cũng như hướng cải cách các thể chế này nhằm tạo ra động lực tăng trưởng nhanh và phát triển bền vững.

Vấn đề nằm ở chỗ, làm sao phân biệt được thể chế tốt và thể chế xấu bởi vào thời “ngăn sông cấm chợ” thì khái niệm “huyện là pháo đài kinh tế” được tán dương còn nhìn dưới góc độ bây giờ mới thấy chuyện cấm đem sản phẩm của địa phương này bán ở địa phương khác là phi kinh tế. Vấn đề còn nằm ở chỗ, nội hàm của thế chế phải được hiểu như thế nào để thể chế mang tính động lực thúc đẩy phát triển.

Ví dụ thể chế kinh tế với khái niệm nền tảng “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, nếu cứ hiểu “định hướng xã hội chủ nghĩa” là công hữu hóa tư liệu sản xuất, được cụ thể hóa bằng quy định kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo hay đất đai thuộc sở hữu toàn dân do nhà nước quản lý thì liệu có phải là câu chuyện “huyện là pháo đài kinh tế” được lập lại ở một hình thức khác?

Ngược lại, nếu hiểu kinh tế thị trường trước tiên là phải tôn trọng đầy đủ các quy luật của kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa là có công cụ điều tiết và chính sách phân phối để bảo đảm công bằng và tiến bộ xã hội thì đây hoàn toàn là một thể chế tích cực có tác dụng tạo ra môi trường cạnh tranh bình đẳng, trong đó không những các pháp nhân kinh tế được tôn trọng mà các cá nhân kinh tế được tạo điều kiện để phát triển hết năng lực của mình, không một ai bị bỏ lại đằng sau trên con đường phát triển.

Trong tác phẩm “Vì sao nước thịnh nước suy”, James Robinson và Daron Acemoglu dựa vào khái niệm thể chế để giải thích vì sao có nước giàu lên lại có nước cứ lụi tàn. Trong một thể chế mọi người xắn tay áo lên cùng nhau giải quyết các vấn đề của xã hội, cùng chia sẻ những lo toan, làm việc gì cũng vì lợi ích chung hay ít nhất là lợi ích của đại đa số, đất nước có một thể chế như thế sẽ hưng thịnh – hai tác giả gọi đó là thể chế dung nạp. Ngược lại ở một đất nước nơi giới lãnh đạo cứ khăng khăng cho rằng mình sẽ lo được hết mọi chuyện, việc gì cũng để cho nhà nước lo, thực tế lại đưa ra những quyết sách có lợi cho một nhóm nhỏ trong một thể chế loại trừ, đất nước đó ắt sẽ suy vong.


Dung nạp hay loại trừ - cũng thật khó mà dán nhãn cho những quy tắc, luật lệ, tập quán làm nên thể chế. Nhưng hình ảnh xắn tay áo lên cùng nhau làm chính là hình ảnh xã hội nào cũng muốn hướng đến, bằng không giỏi lắm là thái độ kẻ bề trên ban ơn cho người nghèo, người thất thế trong xã hội nếu không phải là lối sống ngồi trên đầu trên cổ kẻ khác. Muốn cùng nhau làm, phải có dân chủ; muốn loại trừ việc áp chế người khác bằng quyền lực hay tiền bạc, phải có pháp quyền. Đó là nguyên lý đơn giản.  


Saturday, January 4, 2014

Bitcoin - 3

Nóng lạnh Bitcoin

(Một ấn bản có biên tập của bài này đã đăng trên Tuổi Trẻ)

Dù dè dặt cảnh giác hay hăm hở tìm cách tận dụng một xu hướng mới, người ta phải tìm hiểu về đồng tiền ảo Bitcoin trước khi có thể đưa ra những quyết định đúng đắn.

Nói gì thì nói cựu chủ tịch Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed) Alan Greenspan vẫn là người có những phát biểu làm chao đảo thị trường. Tuần trước ông tuyên bố đồng tiền ảo Bitcoin chỉ là một dạng bong bóng vì bản thân nó không có một giá trị nội tại nào cả. Tuyên bố này (kèm với lệnh cấm của ngân hàng trung ương Trung Quốc không cho hệ thống ngân hàng nước này giao dịch bằng Bitcoin) đã làm giá đồng tiền này lao dốc không phanh, từ đỉnh cao 1.216 USD/1 Bitcoin xuống còn 576 USD/1 Bitcoin vào ngày 7-12-2013. Nhưng Bitcoin là gì, ai đẻ ra nó, nó hoạt động ra sao, tương lai nó như thế nào?

Nhu cầu phải có đồng tiền ảo

Nhu cầu có một đồng tiền để giao dịch trên Internet là không thể tránh được. Trong thế giới thật, người ta chỉ cần cầm tờ giấy bạc ra chợ mua bất kỳ món gì mình cần mà đâu phải tiết lộ danh tính hay nhờ một bên thứ ba làm trung gian. Thế nhưng trong khi thế giới chuyển dần sang giao dịch qua mạng, việc thanh toán qua Internet không dễ như trong thế giới thật: phải dùng các phương tiện trung gian như thẻ tín dụng, chuyển khoản, Paypal... tức thế giới ảo đi sau thế giới thật trong phương diện thanh toán. Nếu so sánh việc gởi email trong thế giới ảo và gởi thư bằng đường bưu điện trong thế giới thật khác nhau ra sao thì mới thấy đáng ngạc nhiên là việc thanh toán điện tử vẫn chưa được một phần dễ dàng như trong đời sống thật. Vì thế trước sau gì cũng phải có đồng tiền ảo, không Bitcoin thì đồng tiền khác.

Ngoài ra còn có những nhu cầu đa dạng khác cho một đồng tiền như Bitcoin. Với giới tham gia phong trào chống đối Phố Wall, họ nghĩ một đồng tiền ảo, không phụ thuộc vào một ngân hàng trung ương nào, không phải qua trung gian của hệ thống tài chính-ngân hàng mà họ cho là đã quá tham lam, chính là phương tiện giúp họ triệt tiêu ảnh hưởng của giới tài phiệt lên cuộc sống của người dân bình thường.

Với giới nhà giàu mới nổi ở Trung Quốc nhu cầu chuyển dịch tài sản ra nước ngoài mà không chịu sự kiểm soát của nhà nước là rất lớn. Ngoài ra nhu cầu tiền ảo, tức là loại tiền mà khi giao dịch không để lại dấu vết cũng rất lớn đối với dân làm ăn phi pháp như buôn bán ma túy, tân dược trái phép, cờ bạc, rửa tiền... Đồng Bitcoin ra đời và phát triển nhanh chóng cũng do cái nhu cầu đa dạng này cộng với bối cảnh khủng hoảng tài chính toàn cầu trong năm năm nay làm lòng tin vào hệ thống tài chính truyền thống đang bị bào mòn.

Cơ chế hoạt động

Đầu tiên người dùng phải có chiếc ví Bitcoin (Bitcoin Wallet), bằng cách tải những phần mềm tạo ra nó từ một số trang web chuyên làm dịch vụ này. Mỗi ví Bitcoin có một địa chỉ riêng là một chuỗi số và chữ (ví dụ: 13vxz4E7ieSRdjT5Z12hv4UYWd6PQ3MRVh). Đồng Bitcoin sẽ được gởi vào ví theo địa chỉ này. Có hai dạng phần mềm tạo ra ví Bitcoin: loại tải hết về máy tính để bàn và loại ví để trên mạng. Loại đầu thì rất mất thời gian để tải về máy (có khi phải cả ngày) như chương trình Bitcoin QT. Loại sau thì nhẹ hơn, đăng ký thì có liền (như đăng ký tại Blockchain.info) nhưng nên nhớ lúc đó tiền Bitcoin của bạn sẽ lơ lửng trên mạng, cũng có thể mất như chơi. Hiện nay cũng đã có loại ví cho máy điện thoại di động như iPhone hay Android tải về như một app.

Sau khi có ví rồi thì bạn có thể vào các trang giao dịch Bitcoin để mua bitcoin đem về bỏ vào ví và như thế bạn được xem là đã tham gia vào cộng đồng Bitcoin. Thường thì mua Bitcoin bằng chuyển khoản, thẻ tín dụng hay trả trực tiếp bằng tiền mặt. Sau đó bạn cứ giao dịch mua bán hàng hóa hay dịch vụ và thanh toán bằng Bitcoin. Thoạt tiên giao dịch được xem là chưa xác nhận. Cứ mỗi 10 phút mọi giao dịch sẽ được cập nhật vào sổ cái và lúc đó mới được dán nhãn là đã xác nhận.

Có người thắc mắc, 1 Bitcoin nay đã có giá trên 1.000 đô-la Mỹ, vậy làm sao dùng nó để giao dịch mua bán những món hàng nhỏ? Cũng giống tiền thật, 1 Bitcoin được chia thành 100 decibitcoin, rồi centibitcoin, millibitcoin... và đơn vị nhỏ nhất là 1 satoshi (= 0,00000001). Nếu đồng đô-la Mỹ được ký hiệu thành USD, đồng tiền Việt thành VND thì Bitcoin được ký hiệu thành BTC.

Ví dụ nhân vật A (có ví với địa chỉ AAAAA) muốn trả cho nhân vật B (có ví với địa chỉ BBBBB) 0,005 Bitcoin để mua một món gì đó. A sẽ bấm trả cho B qua phần mềm, hệ thống sẽ xác nhận và “sổ cái” ghi nhận nay ví A giảm đi 0,005 Bitcoin, B có thêm 0,005 Bitcoin. B hoàn toàn có thể không biết A là ai vì A có khả năng tạo ra rất nhiều địa chỉ để giao nhận Bitcoin.

Bộ máy đằng sau

Câu hỏi đặt ra: nếu Bitcoin chỉ là một dãy chữ và số như thế, lấy gì đảm bảo cho các giao dịch, lấy gì đảm bảo một người nào đó cứ lấy cái dãy chữ và số đó, đi mua hàng khắp nơi, bất kể số tiền có trong ví đã tiêu hết?

Trả lời câu hỏi này chính là hiểu được cơ chế hoạt động của Bitcoin. Mỗi khi có giao dịch xảy ra, thay vì dựa vào một bên thứ ba làm trung gian như một ngân hàng hay nơi phát hành thẻ tín dụng ghi lại giao dịch, cộng đồng Bitcoin quy định, thông tin về giao dịch đó sẽ được ghi vào một cuốn sổ cái mà bất kỳ ai trong cộng đồng này đều phải giữ một bản. Thông tin đó cũng được gán vào phần cuối của dãy chữ và số nói trên, cho biết chủ nhân nó đã tiêu bao nhiêu Bitcoin, giờ còn lại bao nhiêu, tất cả đều công khai cho mọi người biết.

Ghi như thế thì chẳng mấy chốc cuốn sổ cái (mà từ chuyên môn gọi là block chain) sẽ lớn dần lên (hiện nay đã lên đến 11GB, lần đầu tải về máy mất cả ngày trời). Nhưng câu hỏi tiếp theo là ai được phân công ghi sổ cái bởi không lẽ ai cũng ghi hết thì thông tin sẽ rất lộn xộn. Trả lời câu này chính là hiểu được cơ chế sinh ra Bitcoin. Người ta quy định, cộng đồng Bitcoin sẽ đua nhau giành lấy quyền được ghi các giao dịch vào sổ cái, cứ 10 phút cập nhật một lần. Để cái quyền này không phải ai cũng giành được, người ta sẽ gán với việc cập nhật sổ cái những thuật toán ngày càng phức tạp, muốn giải nó phải dùng những máy tính ngày càng mạnh. Các bài toán này liên tục được nâng độ khó, sao cho việc giải cần thời gian chừng 10 phút đúng như quy định về thời gian cập nhật. Ai giành được quyền cập nhật thì sẽ được thưởng, thời điểm hiện nay là 25 Bitcoin. Quá trình này được ví von là “khai mỏ” (hay “đào” – mining) Bitcoin.

Lúc Bitcoin mới ra đời vào ngày 3-1-2009,  phần thưởng là 50 Bitcoin. Và để thị trường khỏi lạm phát Bitcoin, người ta cũng quy định cứ sau 210.000 lần cập nhật sổ cái thì số Bitcoin được thưởng sẽ cắt còn một nửa nên bây giờ chỉ còn 25 đơn vị. Dự tính đến năm 2017, số Bitcoin phát sinh mỗi 10 phút chỉ còn 12,5 và đến năm 2140 con số thưởng sẽ bằng không, lúc đó số lượng Bitcoin đạt đỉnh của nó là 21 triệu đơn vị. Cho đến nay đã có khoảng 12 triệu Bitcoin ra đời theo kiểu này.  

Nhưng ai quy định như thế?

Câu hỏi tiếp theo mà chắc chắn sẽ nảy sinh khi đọc đến đây là ai đưa ra những quy định nói ở trên. Một nhân vật bí ẩn tên là Satoshi Nakamoto chính là người đầu tiên đưa ra những quy tắc chi phối hoạt động của đồng tiền ảo Bitcoin trong một công trình nghiên cứu công bố ngày 1-11-2008. Mặc dù sau này cộng đồng sử dụng Bitcoin đã cùng thống nhất thêm nhiều lớp quy định mới, công trình của Satoshi đặt nền tảng cho Bitcoin nên ông được xem là cha đẻ của đồng tiền ảo này.

Và như để thêm sự ly kỳ cho đồng tiền ảo, số phận của nhân vật Satoshi này cũng biến ảo không kém. Trước hết chưa ai từng gặp mặt ông này cho nên nhiều người nay cho rằng đây chỉ là một cái tên ảo, đại diện cho cả một nhóm người, có thể thuộc một tập đoàn nào đó hay thậm chí của cơ quan tình báo một nước nào đó. Theo thông tin của trang Bitcoin Wiki, Satoshi tự miêu tả mình 37 tuổi (năm 2008), độc thân, sống ở Nhật Bản. Phân tích các bài viết của nhân vật này, người ta cho rằng đây là một người gốc Anh (vì dùng tiếng Anh của người Anh) nhưng sống ở Mỹ (vì cách đánh vần lại theo kiểu Mỹ và giờ ngưng hoạt động trùng khớp với giờ đi ngủ của dân miền Đông nước Mỹ). Phân tích phần mềm Satoshi viết, nhiều người cho rằng đây là một nhân vật trong giới nghiên cứu học thuật nhưng thiếu kinh nghiệm thực tiễn. Động cơ của Satoshi khi cho ra đời Bitcoin rõ ràng không phải vì lợi nhuận (bởi vì sau đó vào cuối năm 2010 ông đã biến mất hoàn toàn, không để lại một dấu vết nào); động cơ của ông là chống lại việc kiểm soát Internet, kiểm soát hệ thống ngân hàng, phản đối việc dùng tiền đóng thuế của dân để cứu ngân hàng...

Đã có nhiều tờ báo cất công điều tra xem nhân vật này thật sự là ai; cũng có nhiều bài báo công phu ra đời, chỉ đích danh người này người kia. Nhưng cho đến nay chưa có ai thành công trong việc xác định danh tính thật của Satoshi. Có lẽ sự bí ẩn của cha đẻ Bitcoin đã tô điểm thêm cho sự lôi cuốn của đồng tiền ảo này. Dù sao Satoshi cũng đã được vinh danh khi tên ông được dùng để đặt cho đơn vị Bitcoin nhỏ nhất: 1 satoshi bằng 0.00000001 BTC.

Tiền điện trong khai thác Bitcoin

Như đã nói ở trên, cộng đồng tin học sử dụng những dàn máy ngày càng mạnh để “khai mỏ” Bitcoin, tức tham gia quá trình cập nhật thông tin giao dịch của Bitcoin vào sổ cái và giải các bài toán đặt ra để được thưởng Bitcoin. Chính vì sự nóng sốt của đồng tiền ảo này mà ngày càng có nhiều người tham gia, với máy móc ngày càng mạnh. Năng lực tính toán của tất cả các máy tham gia chuyện này nay đã gấp 100 lần 500 siêu máy tính mạnh nhất thế giới.

Từ đó một vấn đề đặt ra là liệu tiền điện chạy máy có khi nào cao hơn tiền thu về? Theo số liệu thống kê trên trang BlockChain.info, vào tháng 4-2013 khi mỗi Bitcoin có giá chừng 100 đô-la, toàn bộ lượng điện tiêu thụ bởi các máy khai thác Bitcoin đã lên đến 1.000 megawatts giờ/ngày, đủ điện cho 31.000 hộ gia đình ở Mỹ xài, trị giá lên đến 150.000 đô-la. Ngày 4-12, con số này lên đến 105.000 megawatt giờ/ngày, tức tốn chừng 15,8 triệu đô-la tiền điện. Vậy 24 tiếng vừa qua, người ta “đào” được 4.800 bitcoin, hóa ra mỗi đồng bitcoin tốn đến gần 3.300 đô-la tiền điện? So với giá Bitcoin ngày đó là 1.146 đô-la thì “khai thác”mỗi đồng Bitcoin, dân đào mỏ lỗ trên 2.000 đô-la! Thật ra con số này chia đều cho hàng trăm ngàn người tham gia khai mỏ, nhiều người xem nó như trò tiêu khiển, nhiều nơi chạy máy chủ yếu dùng vào mục đích khác nên dân đào mỏ chuyên nghiệp vẫn còn lãi nên vẫn tiếp tục khai mỏ Bitcoin. Nhưng dù sao nhìn vào các con số thống kê này chúng ta sẽ hiểu vì sao đã có nhiều nhận định khác nhau đến thế về đồng tiền này – không ai chịu lỗ như thế để “đào” một đồng tiền có khả năng mất giá sâu hơn nữa!

Những nhận định trái ngược

Cùng thời điểm Alan Greenspan đưa ra nhận định Bitcoin là bong bóng đầu cơ, ngân hàng Bank of America lại tung ra một báo cáo dài 14 trang, tiên đoán một tương lai rực rỡ cho đồng tiền ảo này. Đây là hai thái cực thường thấy mỗi khi có ai đó bàn về Bitcoin.

Trong khi đương kim chủ tịch Fed, Ben Bernanke cho rằng Bitcoin có tiềm năng là đồng tiền ảo của tương lai thì ngân hàng trung ương Pháp lại có những nhận xét không hay ho gì về nó khi cho rằng giao dịch bằng Bitcoin không đáng tin cậy, đầy rủi ro. “Hệ thống này có thể sụp đổ bất kỳ lúc nào nếu nhà đầu tư muốn thoát khỏi thị trường nhưng vẫn phải ôm nó vì thiếu thanh khoản” – ngân hàng này nhận định. Ngược lại, báo cáo của Bank of America viết: “Chúng tôi tin rằng Bitcoin có thể trở thành một phương tiện thanh toán cho thương mại điện tử, cạnh tranh ngang ngữa với các phương cách chuyển tiền khác”. Ngân hàng này tính toán và cho rằng giá thị trường của 1 Bitcoin đúng ra là chừng 1.300 USD/ 1BTC.

Báo chí cũng chia thành hai phe, ủng hộ và chê bai Bitcoin, cả hai đều sôi nổi chẳng ai kém ai. Có tờ thì đăng tải cả hai dạng ý kiến. Một bên cho rằng Bitcoin là đồng tiền của tương lai, dù bây giờ người ta chưa hiểu hết nhưng cũng giống như ngày xưa người ta đâu đã hiểu hết Internet hay cuộc cách mạng công nghệ thông tin. Phe này chủ trương nghe ngóng và quan sát chứ không lên án nó vội bởi ngày xưa chính chủ tịch IBM từng nói thị trường thế giới chỉ cần khoảng năm cái máy tính hay một ông khác nghi ngờ vì sao các gia đình lại phải trang bị máy tính trong nhà làm gì!!! Bên kia cho rằng Bitcoin là cơn sốt đầu cơ chẳng khác gì cơn sốt hoa Tulip ở Hà Lan vào thế kỷ 17. Thiên hạ đang nhảy vào Bitcoin vì lòng tham nên giá của nó là giá ảo.

Tờ New York Times đăng một loạt bài về Bitcoin, chủ yếu để chứng minh đồng tiền này trước sau gì cũng sụp đổ, rằng cơn sốt Bitcoin được nuôi dưỡng bởi giới đầu cơ muốn tạo ra một phong trào như kiểu săn vàng miền Viễn Tây nước Mỹ ngày xưa. Ai cũng hiểu như thế nhưng ai cũng nghĩ mình là kẻ khôn ngoan, cứ nắm Bitcoin đợi giá lên thêm một chút và bán tống cho kẻ khờ đến sau. Vấn đề ở chỗ bạn có thể chính  là kẻ khờ đó mà không hề hay biết.

Ngược lại tờ Business Insider lại đăng một bài trong đó tác giả kể quá trình anh ta thay đổi suy nghĩ về Bitcoin như thế nào. Từ chỗ hoài nghi, chê bai và chế giễu, tác giả nay đã tin vào đồng tiền có sức sống tự thân này và tiên đoán chẳng bao lâu người ta sẽ xài Bitcoin thay cho các loại ngoại tệ mạnh khác.

Bitcoin là bong bóng đầu cơ hay là đồng tiền của tương lai?

Thoạt tiên, rõ ràng Bitcoin là sản phẩm của giới tin học, muốn tháo gỡ những ràng buộc truyền thống theo đúng tinh thần chống lại Phố Wall. Nó được xây dựng trên những thuật toán tinh vi, có tiềm năng tự phát triển thành một loại tiền ảo điện tử thành công. Nhưng như chính bản thân tác giả Satoshi đã cảnh báo, dự án Bitcoin phải được phát triển dần dần để hoàn thiện phần mềm và các quy tắc chi phối nó chứ làm người ta chú ý quá thì sẽ sớm giết chết nó.

Bitcoin nổi tiếng quá sớm khi các nơi chấp nhận nó trong giao dịch còn đếm trên đầu ngón tay. Phóng viên báo Time được tòa soạn giao cho 1 Bitcoin với nhiệm vụ đi mua sắm đủ thứ quà cho mùa Giáng sinh bằng đồng tiền này. Xoay sở cũng mua được, ví dụ một sợi dây chuyền (0,0998 BTC); một đôi vớ (0,0206 BTC); một chai rượu vang (0,0402 BTC) và một máy chiếu hình lên trần nhà (0,09537 BTC)... Mua trên mạng còn xoay xở tìm ra nơi bán, mua ngoài đời thật thì hầu như bất khả thi. Kết luận của phóng viên báo Time: Có lý do để cho rằng Bitcoin là đồng tiền của tương lai nhưng tạm thời tôi vẫn thích tiền mặt sờ mó được hơn – trừ phi, sếp chi tiền như vụ mua quà!

Bitcoin cũng nổi tiếng quá sớm khi chưa làm sạch tên tuổi quá khứ của mình. Trong lịch sử hình thành của mình, Bitcoin thường bị gắng với những hành vi mờ ám như dùng tiền để mua ma túy, là phương tiện cho giới mafia rửa tiền. Lẽ ra phải có thời gian để người ta xóa đi cái ấn tượng này khi Bitcoin được dùng mua bán những mặt hàng bình thường trong cuộc sống (như đã diễn ra gần đây).

Hiện nay Bitcoin đã không còn là sản phẩm của cộng đồng tin học nữa; nó đã trở thành miếng mồi ngon cho giới đầu cơ, giới tài phiệt. Đây là một điều rất mỉa mai vì cha đẻ của nó muốn Bitcoin ra đời để thoát khỏi bàn tay kiểm soát của giới tài phiệt! Điển hình là anh em nhà Winklevoss, nổi tiếng nhờ vụ tranh chấp với Mark  Zuckerberg về chuyện ai đẻ ra ý tưởng làm Facebook, nay là dân đầu cơ bitcoin chuyên nghiệp. Họ cho rằng giá Bitcoin còn tăng cả trăm lần nữa và đã nộp đơn xin phép thành lập quỹ tín thác Bitcoin đầu tiên của thế giới. Họ đã bỏ ra 11 triệu đô-la mua Bitcoin khi giá còn ở dưới mức 200 đô-la.

Hơn thế nữa, cơn sốt Bitcoin đã thúc đẩy sự ra đời hàng loạt các trang web dụ dỗ người ta vào mua Bitcoin để kiếm lời. Hoạt động này mờ mờ ẩn ẩn, là môi trường lý tưởng cho giới lừa đảo, chiếm đoạt tiền của người ngây thơ muốn đổi đời nhờ đầu cơ vào Bitcoin. Dĩ nhiên vẫn có những sàn giao dịch có uy tín, làm ăn đàng hoàng nhưng người bình thường làm sao phân biệt được đâu là nơi có thể vào mua, đâu là nơi phải tránh xa. Bitcoin lại không được chính phủ nào thừa nhận chính thức nên mọi tranh cãi, kiện tụng sẽ không được xử lý.

Có lẽ đồng tiền này còn trải qua nhiều biến động thăng trầm mãnh liệt hơn nữa rồi mới dần dần tìm ra vị thế thích hợp trong tương lai. Cứ nghĩ sau này mỗi khi muốn đọc bài báo nào, người ta phải gõ vào một dãy số (tức trừ một khoản tiền trong ví Bitcoin) để trả cho tòa soạn thì sẽ thấy tương lai chắc chắn phải có một dạng Bitcoin nào đó.

Bitcoin và dân Trung Quốc

Trung Quốc là một yếu tố rất lạ đối với Bitcoin. Những tưởng nhà nước Trung Quốc sẽ cấm đoán hay ít nhất tìm cách quản lý đồng tiền ảo này nhưng thực tế chính sách của Trung Quốc là một mặt cho rằng khó lòng thừa nhận Bitcoin như một loại công cụ tài chính hợp pháp trong tương lai gần, mặt khác lại để cho người dân mua bán Bitcoin thoải mái miễn sao phải tự chịu rủi ro. Chỉ mới đến giữa tuần trước ngân hàng trung ương Trung Quốc mới bắt đầu cấm các ngân hàng giao dịch Bitcoin vì cho rằng Bitcoin gắn với nhiều rủi ro, mang tính đầu cơ và dễ bị kẻ gian trục lợi. Sau đó trang mạng Baidu (một dạng Google của Trung Quốc) cũng ra thông báo ngưng nhận Bitcoin là phương tiện thanh toán tiền mua nhạc từ trang này. Hiện nay dân Trung Quốc chiếm 62% khối lượng giao dịch Bitcoin toàn cầu (bằng nhân dân tệ), mà nhiều nguồn tin cho rằng chủ yếu để tìm phương tiện chuyển tiền lậu ra khỏi Trung Quốc. Chính yếu tố này đã đẩy giá Bitcoin lên cao trong tháng 11-2013.

Trước tiên phải nói về cái bẫy mà Trung Quốc tự đâm đầu vào, về mặt phát triển kinh tế trong mấy chục năm qua. Nhìn một cách nào đó, Trung Quốc tự nguyện đóng vai trò công xưởng khổng lồ, sản xuất đủ loại hàng hóa cho cả thế giới, tiêu tốn nhân lực, vật lực và phá hủy môi trường. Lẽ ra đổi lại, Trung Quốc phải nhập hàng hóa từ các nước trên thế giới để người dân tiêu dùng trong một nền thương mại cân bằng. Nhưng không, Trung Quốc hiện đang xuất siêu với nhiều nước, nhất là Mỹ. Điều đó có nghĩa Trung Quốc bán hàng cho Mỹ và ôm một đống đô-la Mỹ về, không biết xài vào việc gì trừ cất giữ làm dự trữ ngoại hối! Dân Trung Quốc lao động cực nhọc để sản xuất hàng hóa cho thế giới tiêu dùng còn bản thân họ dường như giàu có hẳn lên nhưng thật ra chỉ giàu trên giấy tờ.

Nhưng ngày nay người dân Trung Quốc, đặc biệt là giới nhà giàu, không còn chịu cảnh giàu trên giấy tờ như thế nữa. Họ đang tìm mọi cách để chuyển tài sản ra nước ngoài, để “hiện thực hóa” cái thịnh vượng của họ thành những món họ có thể sờ mó được. Bitcoin đang đóng vai trò đồng tiền ảo lý tưởng giúp họ thực hiện quá trình chuyển dịch này. Trong giao dịch chuyển đổi Bitcoin ra ngoại tệ khác thì nhân dân tệ luôn đứng đầu, chiếm 62% trong khi đô-la Mỹ chỉ chiếm 37% và euro thì chưa đến 2%, theo số liệu của BitcoinAverage.

Theo các nhà phân tích, Trung Quốc rất “cay” việc Mỹ cứ in tiền thoải mái làm họ ôm một đống đô-la Mỹ mà cứ lo nó mất giá. Tự nhiên có một đồng tiền giúp họ khỏi lệ thuộc vào đồng đô-la thì chắc chắn họ sẽ không chống đối mà sẽ nghiên cứu, quan sát nó để tận dụng cơ hội. Một lý do khác nữa là dân Trung Quốc tham gia “khai mỏ” Bitcoin ngày càng nhiều, kể cả những cơ sở chuyên nghiệp ở Hồng Kông.

Bitcoin và dân Việt Nam

Mặc dù báo chí Việt Nam chưa nói gì nhiều đến đồng tiền ảo Bitcoin, hoạt động liên quan đến Bitcoin ở Việt Nam có cả hai mảng: “khai mỏ” và mua bán. Về mua bán thì ngay cả trang web giao dịch Bitcoin lớn của quốc tế là blockchain.info cũng đã có phần tiếng Việt dành cho dân Việt Nam muốn mua bán Bitcoin qua mạng. Các trang toàn bằng tiếng Việt hoạt động từ nước ngoài hay từ bên trong Việt Nam cũng đã có. Giá cả cũng bất chừng, thường cao hơn ở nước ngoài, có lẽ do độ rủi ro cao hơn; chênh lệch mua bán cũng cao, ví dụ giá mua 21,5 triệu đồng một Bitcoin thì giá bán lên đến 25,3 triệu đồng. Theo quảng cáo trên các trang này, người mua có thể chuyển khoản tiền vào các tài khoản ngân hàng trong nước như Vietcombank hay Đông Á để mua Bitcoin. Đặc biệt trang web mua bán Bitcoin trực tiếp bằng tiền mặt cũng có phần dành cho các địa điểm trong Việt Nam như TPHCM hay Hà Nội. Thử chọn TPHCM thì thấy ba nhân vật sẵn sàng bán Bitcoin bằng tiền mặt, hẹn nhau giao dịch ở quận 1 và quận 3. Không có gì bất ngờ nếu thời gian tới nở rộ các đại lý mua bán Bitcoin cho các trang web nước ngoài và cũng có thể xảy ra chuyện lừa đảo như từng xảy ra ở nhiều nước khác.

Về mảng “khai mỏ” Bitcoin thì có vài ba diễn đàn chuyên về đề tài này. Dân “khai mỏ” bày nhau cách mua máy mạnh nhất, cách lắp đặt máy sao cho có hiệu quả nhất, kể cả việc dùng quạt để tản nhiệt... Điều này có vẻ dân Việt Nam đi sau các nước lân cận như ở Hồng Kông Trung Quốc có những trung tâm chuyên khai mỏ, dùng máy chuyên nghiệp. Đa phần dân khai mỏ Việt Nam đăng ký góp sức (pool) với các nhóm khai mỏ chuyên nghiệp nước ngoài chứ không ai đứng ra khai mỏ một mình.
Có lẽ quyết định đúng đắn nhất với Bitcoin cho đến thời điểm này là chờ để xem diễn biến ra sao chứ không bị cuốn vào cơn sốt đầu cơ Bitcoin đầy rủi ro.

Box:

Chúng ta đều đã biết Bitcoin là một loại tiền ảo, thế nhưng bất cứ lúc nào báo chí đăng tin bài về đồng tiền này đều thấy dùng hình minh họa là một đống tiền xu, ghi rõ Bitcoin, nhìn rất đẹp và rất thật. Chúng là gì, đồ thật hay đồ giả?

Loại đồng xu Bitcoin này do anh chàng Mike Caldwell làm ra và chào bán trên trang web Casascius. Cách làm là yêu cầu bất kỳ ai có tiền Bitcoin trong ví ảo, cứ gởi cho Caldwell, anh này sẽ đúc đồng xu, bên trong khắc dãy mã số bí mật dùng để mở ví mà xài. Dãy mã số này nằm đằng sau một băng giấy bảo mật gỡ ra xem coi như không còn “gin” nữa. Đồng tiền xu Bitcoin như trong hình vì vậy chủ yếu là để làm kỷ niệm vì chỉ cần xài một lần coi như mất gin rồi thì không còn giá trị gì nữa.

Anh chàng này tính tiền công đúc Bitcoin chừng 50 đô-la mỗi đồng. Mệnh giá mỗi đồng thì tùy, từ 1 Bitcoin đến 10, 25, 100, và 1000 Bitcoin. Trước nay anh ta đúc được 90.000 đồng thì bị chính quyền Mỹ buộc dừng vì họ cho là anh chàng này đang chuyển ngân mà không có giấy phép.


Wednesday, January 1, 2014

Bitcoin - 2

Bitcoin: Ảo hay thật?

(Bài đăng trên báo Thanh Niên)

Bitcoin đã trở thành một đề tài nóng từ khi giá của một bitcoin vượt mốc 1.000 đô-la vào gần cuối tháng 11-2013 trong khi đầu tháng giá của nó chỉ là 215 đô-la và đầu năm chỉ là 13 đô-la. Hàng trăm bài báo nói về nó đều dành chừng một phần ba để giải thích nó là gì nhưng có lẽ độc giả những bài đó đọc xong cũng vò đầu bức tai chưa hiểu. Để cho đúng bài bản, chúng tôi cung cấp phần giải thích đó ở hộp (box) bên dưới nhưng nên nhớ sự mơ hồ về Bitcoin là một phần nguyên do tại sao nó hấp dẫn mọi người đến thế. Cứ thử tưởng tượng chúng ta giải thích như thế nào đây cho một người ở năm 1975 Internet là gì – dù có nói cặn kẽ đến mấy ắt người đó cũng khó lòng hình dung ra. Có lẽ người bình thường như chúng ta cũng không cần hiểu cách Bitcoin được tạo ra, ai tạo ra nó mà chỉ cần nắm một số đặc điểm của Bitcoin.

Giá của nó đang dao động dữ dội. Có lẽ minh họa tốt nhất cho điều này là câu chuyện được nhiều báo tường thuật. Anh chàng  Kristoffer Koch mua 5.000 Bitcoin với giá 27 đô-la vào năm 2009 rồi quên béng nó mất. Nay sực nhớ ra thì số Bitcoin này đã có giá đến 850.000 đô-la (giá lúc báo tường thuật) và Koch bèn bán một phần, đủ tiền mua được căn hộ ở Oslo, Na Uy. Khỏe re.

Câu chuyện này và hàng ngàn mẩu tương tự đã tạo nên cơn sốt đầu cơ Bitcoin làm giá của nó ngày càng tăng vọt. Cộng với tin đồn dân Trung Quốc đang tìm mua Bitcoin để làm phương tiện chuyển tiền ra nước ngoài, việc Thượng viện Mỹ nghe điều trần về nó, rồi Chủ tịch Fed Ben Bernanke úp mở về việc công nhận nó như một sáng kiến tiền tệ - giá Bitcoin không tăng mới là chuyện lạ. Chỉ có điều đây cũng sẽ là yếu huyệt của Bitcoin. Một đồng tiền mà ai nấy đều muốn cất giữ, không đem ra xài thì chắc chắn nó không phải là đồng tiền đúng nghĩa.

Tương lai của nó là điều đang tranh cãi. Các nhà kinh tế thì ít khi nhất trí với nhau điều gì – bàn về tương lai Bitcoin càng minh họa cho điều này. Một bên cho rằng Bitcoin là loại tiền tệ của tương lai khi không ngân hàng trung ương nào kiểm soát được nó, không nước nào lạm dụng chính sách tiền tệ để gây ra lạm phát. Bitcoin làm cho việc thanh toán trực tuyến ngày càng dễ dàng, không tốn kém chi phí cho các bên trung gian như thẻ tín dụng. Bitcoin sẽ làm cho nền kinh tế tri thức thật sự cất cánh khi người ta có được phương tiện giao dịch lý tưởng, từ việc trả tiền để đọc một bài báo đến góp tiền cho một dự án đầu tư đầy tiềm năng – tất cả chỉ bằng cái bấm chuột hay lắc chiến điện thoại di động.  

Bên kia thì cho rằng Bitcoin là cơn sốt kiểu nước hoa Thanh Hương hay phong trào nuôi chim cút ngày xưa, là một sự đầu cơ trắng trợn, ai cũng muốn xí phần nên bây giờ là giai đoạn bong bóng  phìng  ra, người sau trả tiền cho người trước để nuôi cơn sốt Bitcoin thêm một thời gian nữa. Bitcoin không có giá trị sử dụng mà chỉ có giá trị do những người trao đổi nó với nhau gán lên – trước sau gì nó cũng sụp đổ và lúc đó, sự mất mát của người giữ nó sau cùng sẽ rất lớn.

Hiện đang có nhiều nơi nhảy vào khai thác Bitcoin theo đủ kiểu. Hàng loạt trang web đã được nhanh chóng đẻ ra để tận dụng cơn sốt Bitcoin. Chúng ăn theo Bitcoin theo đúng từng lãnh vực. Đầu tiên là loại trang mời tham gia cộng đồng “khai thác” Bitcoin. Kế đến là loại mua bán Bitcoin mà Việt Nam cũng đã có khá nhiều (cái hay là đa phần đều làm ra vẻ khó tham gia, mua Bitcoin cũng không phải là chuyện dễ). Sau đó là các phần mềm để tự động hóa hay đơn giản hóa các quy trình liên quan đến Bitcoin. Lời khuyên của các chuyên gia từ nhiều nguồn là người dùng hãy thận trọng khi giao dịch với các trang web này. Cũng còn một loại nữa là các nơi đang tìm cách cho ra đời các loại tiền ảo tương tự như Bitcoin, loại này thì càng cần phải cảnh giác hơn nữa.

Bitcoin thường bị gán với các hoạt động mờ ám. Bởi khả năng giữ bí mật cho mọi giao dịch, Bitcoin là đồng tiền lý tưởng cho giới rửa tiền, giới mua bán ma túy. Thật vậy, trước khi Bitcoin trở thành cơn sốt, giao dịch Bitcoin chủ yếu là với trang web The Silk Road, là nơi bán tân dược không có phép. Tuy nhiên trong thực tế hiện nay mọi giao dịch liên quan đến Bitcoin đều được ghi lại chi tiết trong cuốn sổ “block chain” mà bất kỳ ai cũng có thể truy cập cho nên nói Bitcoin là phương tiện rửa tiền là không chính xác. Chỉ có điều dân xài Bitcoin thường có tư tưởng phi chính phủ, chống lại mọi sự kiểm soát, ủng hộ cho tự do tuyệt đối nên chung quanh nó mang màu sắc “phi chính thống”.

Nói tóm lại cái thúc đẩy Bitcoin ban đầu có thể là sự chống đối hệ thống ngân hàng chính thống, trong bối cảnh khủng hoảng tài chính bộc lộ lòng tham của giới tài phiệt. Cộng đồng Bitcoin ban đầu có thể có mong muốn xây dựng một đồng tiền ảo “phi chính phủ” thật sự. Nhưng cái thúc đẩy Bitcoin hiện nay là lòng tham của các bên tham gia, tương tự như làn sóng đi tìm vàng ở nước Mỹ thời xưa. Trong bối cảnh đó, Bitcoin đúng ra là một thứ tài sản ảo hơn là tiền tệ ảo.

Nên có thái độ như thế nào?

Lịch sử đã cho thấy tiền luôn luôn là công cụ của chính quyền. Khả năng in tiền (dù trực tiếp như ngày xưa hay gián tiếp như hiện nay) đều là một sức mạnh mà không một chính phủ nào muốn để lọt vào tay ai khác. Vì thế cho dù các chính phủ hiện nay có nêu quan điểm như thế nào đi nữa, chắc chắn họ sẽ tìm cách ngăn cản Bitcoin trong tương lai nếu nó đe dọa đến khả  năng in tiền của ngân hàng trung ương nước họ.

Tiền lúc nào cũng có đủ ba chức năng: phương tiện thanh toán, đơn vị kế toán, lưu trữ giá trị. Bitcoin chưa trở thành phương tiện thanh toán dễ dàng nên chưa phải là tiền tệ thật sự. Cái nguyên tắc vật thay thế phải tốt hơn vật nó thay thế thì mới có cơ may phát triển đã không áp dụng được với Bitcoin. Các loại tiền tệ ngày nay vẫn hữu dụng hơn rất nhiều lần so với Bitcoin thì không lý gì nó có khả năng thay thế tiền thật. Bitcoin có giá trị khi người dùng cho là nó có giá trị - cái giá trị này không được ai bảo chứng cả. Vì thế tương lai của Bitcoin luôn luôn hàm chứa sự bất định, sự rủi ro mất trọn giá trị rất lớn.

Tuy nhiên Bitcoin có vai trò của nó. Nó là hồi chuông cảnh tỉnh cho các nước cứ sử dụng quyền in tiền để dùng nó như một sắc thuế đánh lên đầu người dân thông qua lạm phát. Nó là tiền đề cho những loại tiền tệ mới ra đời, nơi quyền lực kiểm soát tiền tệ được chia đều giữa người dân và chính quyền để không ai lợi dụng được ai. Nó là một hình thức thúc đẩy cạnh tranh với giới chức thẩm quyền: nếu anh không làm tốt vai trò của anh, tôi sẽ có cái để thay thế. Nên nhớ Bitcoin ra đời cùng với sự bùng nổ khủng hoảng tài chính toàn cầu vào năm 2008 – và đó không phải là điều ngẫu nhiên.




Box

Bitcoin là gì?

Cuối năm 2008 một nhân vật hay một nhóm người dưới cái tên Satoshi Nakamoto xuất bản một công trình nghiên cứu về một hệ thống tiền tệ điện tử không cần thông qua ngân hàng, tạo nền tảng cho sự ra đời của Bitcoin. Nếu tiền ảo là thông tin thì nguy cơ đầu tiên là người dùng cứ dùng đi dùng lại một món tiền để mua hàng, theo kiểu cắt dán thông tin. Chỉ có thể ngăn chận điều này bằng cách lập nên một hệ thống sổ sách ghi chép mọi giao dịch nhưng như vậy thì cần một bên thứ ba làm trung gian, chẳng khác gì một ngân hàng trung ương. Bitcoin loại bỏ bên thứ ba này bằng cách công khai sổ cái ghi chép này, ai cũng có thể lấy về xem.

Dùng hệ thống máy tính ngang hàng, những người tham gia vừa tạo ra Bitcoin vừa dùng máy tính để ghi lại hết mọi giao dịch của các đồng Bitcoin này trong một cuốn sổ cái ghi chép nói trên gọi là “block chain”. Mỗi khi có người gởi Bitcoin từ địa chỉ của mình đến một nơi khác, anh ta tạo ra một chữ ký gắn vào cuối giao dịch, tất cả đều kèm vào cái “block chain”chung. Những người tình nguyện dùng  máy mạnh để xử lý các giao dịch này và ghi vào sổ thì được thưởng Bitcoin, là cái mà các báo thường dùng từ “khai mỏ” (mining) để miêu tả.

Hiện nay cứ mỗi 10 phút thì sổ “block chain” được cập nhật một lần và máy nào hên giành được quyền cập nhật đó thì được nhận 25 Bitcoin. Đó là quá trình tạo ra Bitcoin. Các thuật toán tạo ra Bitcoin được viết sao cho ngày càng khó để việc tạo ra Bitcoin ngày càng phức tạp, đòi hỏi máy xử lý ngày càng phải mạnh hơn. Tổng số tiền Bitcoin tạo ra theo cách này tối đa là 21 triệu Bitcoin (dự đoán là vào năm 2140). Cho đến nay đã có 11 triệu Bitcoin đang lưu hành

Bitcoin thực chất là một dãy con số và chữ cái như một địa chỉ (ví dụ 1DTAXPKS1Sz7a5hL2Skp8bykwGaEL5JyrZ). Bạn sở hữu một Bitcoin có nghĩa bạn nắm trong tay một mật mã gắn với địa chỉ này, cho phép bạn truy cập vào cuốn sổ cái “block chain” để xác định trị giá của nó. Bạn trả tiền cho một người hay một nơi nào đó có nghĩa bạn báo cho “block chain” bạn sẽ chuyển giao bao nhiêu... Hiện nay đã có những phần mềm cài lên điện thoại di động cho phép dùng màn hình quét một hình mã vạch để nhập tự động địa chỉ này và tự động hóa quy trình giao dịch – gọi là ví tiền (wallet). Và vì sổ cái “block chain” được cập nhật 10 phút một lần nên giao dịch của bạn cũng thường phải chờ cả 10 phút mới được chấp nhận.


Box

Giao dịch với Bitcoin như thế nào?

Với người bình thường, ít ai nghĩ đến chuyện dùng máy tính tham gia vào công đoạn “khai mỏ” Bitcoin. Họ dùng cách đơn giản hơn là mua nó. Hiện nay đã có rất nhiều trang web (kể cả ở Việt Nam) chuyên giao dịch Bitcoin (như blockchain.info). Bạn vào đăng ký tài khoản và được cấp một cái ví (wallet), sau đó chuyển tiền từ tài khoản ngân hàng vào để mua Bitcoin (như ở Mt. Gox). Có Bitcoin rồi thì cứ dùng nó mà thanh toán ở bất kỳ nơi nào chấp nhận loại tiền ảo này. Thật ra cho đến nay vẫn có rất ít nơi chấp nhận Bitcoin dù con số này đang tăng nhanh (nổi bật có dịch vụ tạo trang blog WordPress hay hãng du hành không gian Virgin Galactic, và nhiều sòng bạc trực tuyến). Mỗi Bitcoin được chia nhỏ thành nhiều phần, nhỏ nhất là 0.00000001, gọi là một Satoshi.

Nhiều nơi cũng đã lắp đặt một dạng máy đọc Bitcoin, tức một máy tính kết nối với hệ thống mạng Bitcoin. Ai mua hàng, có thể dùng điện thoại di động đã cài ví Bitcoin để quét hình mã vạch và trả tiền.

Lúc Bitcoin mới ra đời, một nhà lập trình ở Mỹ tên Gavin Andresen mua 10.000 bitcoin với giá 50 đô-la rồi lập ra một website tên Bitcoin Faucet để biếu không bitcoin cho bất kỳ ai quan tâm. Một nhà lập trình khác tên Laszlo Hanyecz ở Florida được xem là người đầu tiên sử dụng Bitcoin để mua hàng. Lúc đó anh này bỏ ra 10.000 bitcoin để mua hai chiếc bánh pizza (anh ta gởi bitcoin cho một người tình nguyện tham gia ở Anh, người này gọi điện cho nơi bán pizza đọc số thẻ tín dụng để thanh toán). Số bitcoin này bây giờ tương đương hơn 10 triệu đô-la!


Cryptocurrency

  Phép thử tiền crypto   Không biết hãng Finder khảo sát ở đâu, với ai mà kết luận đến 41% dân Việt Nam có sở hữu tiền mã hóa (cryptocur...