Có hay không – “hậu báo chí”?
Hết “hậu sự thật” nay
người ta đang nói về “hậu báo chí”. Có hay không cái khái niệm lạ
đời này và vì sao nhiều nhà báo đòi từ bỏ các nguyên tắc khách
quan, đa chiều của báo chí để đòi hỏi một loại báo chí đem lại công
bằng, nhà báo phải là chiến binh thập tự chinh cho những điều họ tin
là lẽ phải?
Theo Andrey Mir tác giả cuốn “Hậu báo chí và cái
chết của báo” (2020), báo chí ngày xưa bán độc giả cho nhà quảng
cáo thì nay các báo trong thời kỳ “hậu báo chí” bán độc giả cho
công chúng. Báo chí truyền thống cố gắng tìm sự khách quan; cố gắng
miêu tả thế giới như nó “đang là”. “Hậu báo chí” cố tình theo chủ
quan; cố tình diễn tả thế giới như nó “phải là”. Một tờ báo theo mô
hình “hậu báo chí” sẽ dựng tường lửa để dụ khách trả tiền và
bước vào thế giới sau bức tường - trong thế giới này cái được bày
biện không phải là tin tức mà chủ kiến, đúng sai đã phân định; phóng
viên là nhà hoạt động cho một niềm tin nào đó. Báo chí ngày trước
cần có những khách hàng hài lòng, vui vẻ, sẵn sàng mua sắm; báo
chí ngày nay, theo Andrey Mir, cần tạo ra những người dân giận dữ, bất
bình.
Nói cách khác, khi khóa bài buộc người đọc trả
tiền mới được vào đọc, các báo không thể cạnh tranh bằng tin tức vì
lượng thông tin trên thế giới là vô hạn, cung vượt xa cầu nên tin tức
chạy theo người đọc chứ không phải người đọc chạy theo tin. Vì thế
các báo phải bán một thứ khác – là niềm tin, là một sự đeo đuổi
cho một cộng đồng những người cùng chia sẻ niềm tin này, sự đeo đuổi
này. Andrey Mir nhận xét báo chí truyền thống mất 500 năm để xây dựng
hoàn chỉnh mô hình bán độc giả cho nhà quảng cáo; Internet phá hủy
mô hình đó trong vòng 20 năm nên “hậu báo chí” vẫn ở những bước sơ
khai. Sự xung đột ở các báo, sự tranh cãi giữa các thế hệ làm báo,
những xì-căng-đan sa thải nhà báo… tất cả đều là hệ quả của việc
chuyển đổi mô hình trong giai đoạn ban đầu, tranh tối, tranh sáng.
* * *
Martin Gurri, trong một bài viết dài trên tờ City
Journal đã dùng tờ New York Times như một ca điển hình chuyển
đổi sang “hậu báo chí”. Tuy nhiên phân tích rất hấp dẫn của ông dựa
vào cách New York Times đưa tin, viết bài về tổng thống Trump
trong suốt 4 năm dài nên có thể không khách quan với nhiều người. Ở
đây chỉ kể lại một chuyện mà lúc đó cũng có nhiều báo khác đưa tin
đầy đủ: Tháng 8-2019, sau vụ nổ súng giết người hàng loạt làm 31
người chết, New York Times rút tít trên trang nhất: “Trump kêu gọi
đoàn kết chống lại phân biệt chủng tộc” – một cái tít đưa tin bình
thường, dù rất khuôn sáo nhưng không sai vì tin nhấn mạnh vào thông
điệp trong bài phát biểu của Tổng thống Trump. Thế nhưng độc giả New
York Times phẫn nộ, nhiều phóng viên lên mạng xã hội chê trách, nhiều
giới trí thức buông lời “không tin được” và đòi hủy mua báo dài hạn.
Cuối cùng New York Times phải đổi tít thành “Lên án sự thù hằn
nhưng không lên án súng đạn”! Tức tường thuật phát biểu của Trump
nhưng phải tìm ra một góc độ “phản kháng” cho đúng mong muốn của
giới độc giả NYT thu tiền.
Lúc đó sự phản đối của giới phóng viên chịu ảnh
hưởng của “hậu báo chí” dữ dội đến nỗi Tổng biên tập NYT là Dean
Baquet phải tổ chức họp nhân viên, biên bản cuộc họp được tờ Slate
đăng nguyên văn. Đây là cuộc họp đặt ra ranh giới diễn đạt – đâu là
chuyện nói được, đâu là chuyện cấm kỵ trong một thời đại hậu khách
quan, hậu sự thật, hậu báo chí. Tuy nhiên giới nhà báo kỳ cựu theo
mô hình cũ của NYT vẫn còn nguyên đó và với họ mục ý kiến phải được
miễn nhiễm, phải đặt bên ngoài vòng kềm tỏa của mô hình mới. Thế
là bài “Đã đến lúc đưa quân đội vào” của Thượng nghị sĩ Tom Cotton
xuất hiện, kêu gọi phải dùng biện pháp mạnh để vãn hồi trật tự sau
các cuộc bạo loạn, đốt phá nhân cái chết của một người da đen dưới
chân cảnh sát. Ngay lập tức, các phóng viên trẻ nổi loạn, viết thư
ngỏ phản đối việc đăng bài ý kiến này và sau đó trưởng ban mục ý
kiến, James Bennet phải ra đi.
* * *
Phân tích sự thăng trầm của mô hình kinh doanh mới
của tờ New York Times thường xoáy vào hai chuyện: trước tiên tờ
báo này đã thành công khi chuyển đổi từ chỗ dựa vào quảng cáo sang
dựa vào lượng độc giả có trả tiền. Tính đến hết năm 2020, New
York Times có 7,5 triệu người mua báo điện tử dài hạn, một kỷ
lục chưa báo nào trên thế giới đạt được; con số này đã tăng gấp 7
lần so với 4 năm trước đó. Chỉ
tính riêng năm 2020, New York Times có thêm 2,3 triệu người mua báo
điện tử dài hạn. Doanh thu bán báo điện tử năm 2020 là gần 600 triệu
đô-la, bằng doanh thu bán báo giấy trong khi doanh thu từ quảng cáo sụt
giảm mạnh còn gần 400 triệu đô-la.
Chuyện thứ nhì là sự thay đổi quan niệm làm báo. Trong
một bài viết trên tờ Wall Street Journal mang tựa đề “Bi kịch
của tờ Times”, Holman W. Jenkins, Jr. tóm tắt các phát biểu của tổng
biên tập Baquet rằng ngày nay chính độc giả là người gây áp lực buộc
báo phải đi theo một con đường nào đó; rằng các chủ bút hoài niệm
cái thời doanh thu quảng cáo bảo vệ họ khỏi những áp lực như thế.
Tác giả cho rằng có một nỗi hoài nghi ngày càng lan rộng rằng tờ Times
xem nhiệm vụ của họ là áp đặt một “tự sự” cho thế giới chứ không
phải lắng nghe xem thế giới kể chuyện gì. Một bài viết khác trên tờ
New York Magazine cũng cho rằng mấy năm qua tờ Times ngày càng ít
vô tư, trong khi ngày càng tung hoành như đang ở trong một cuộc thập tự
chinh.
Khách quan hơn là tiếng nói của người trong cuộc –
các phóng viên NYT viết ngay trên tờ báo của họ. Từ năm 2016, Jim
Rutenberg đã phải viết: “Nếu bạn là phóng viên hành nghề và tin rằng
Donald Trump là kẻ mị dân, kích động xu hướng phân biệt chủng tộc và
dân tộc chủ nghĩa tệ hại nhất của đất nước… bạn biết đưa tin về ông
ta như thế nào đây? Bởi nếu bạn tin như thế, bạn sẽ phải ném hết
sách giáo khoa mà báo chí Mỹ đã sử dụng trong suốt nửa thế kỷ qua…
Nếu bạn xem nhiệm kỳ tổng thống của Trump là một thứ có tiềm năng
gây nguy hiểm, bài viết của bạn phải phản ánh chuyện đó. Bạn sẽ
tiến gần hơn bao giờ hết thành một người đối lập”. Có lẽ tâm thế
này giải thích cách NYT và nhiều tờ báo khác đưa tin về ông Trump
trong suốt nhiệm kỳ.
Rõ hơn nữa là bài viết của Wesley Lowery vào giữa
năm 2020 khẳng định các biên tập viên của báo không còn nắm giữ độc
quyền xuất bản nữa trong bài “Định lại tính khách quan, do các nhà
báo da đen dẫn dắt” đăng trên NYT. Anh này cho rằng lâu nay cái gì là sự
thật khách quan chủ yếu do các phóng viên da trắng và các sếp da
trắng quyết định. Nay anh kêu gọi hãy từ bỏ cái làm ra vẻ khách quan
đó; phóng viên phải tập trung vào sự công bằng và nói lên sự thật, đến
hết sức mình, dựa vào bối cảnh cho phép và các dữ kiện có sẵn.
Bằng không từng phóng viên đều có khối lượng người đọc theo dõi trên
mạng xã hội, cho phép họ nói chuyện thẳng với công chúng! Ngay chính
tổng biên tập Baquet trong một bài trả lời phỏng vấn đã cho rằng
tính khách quan “đã trở thành một bức biếm họa” – tốt hơn nên hướng
đến các giá trị khác như sự công bằng, tính độc lập và sự đồng
cảm.
* * *
Tuy nhiên để chứng minh có sự tồn tại của mô hình
“hậu báo chí”, không thể chỉ dựa một mình vào tờ New York Times.
Về đề tài này, tờ Economist đã nhắc đến nhiều tờ báo khác trong
bài viết mang tựa đề “Vì sao tính khách quan trong báo chí trở thành
vấn đề ý kiến”. Mới nhìn qua, tờ này viết, nguyên nhân trực tiếp là
do vấn đề chủng tộc như hơn 150 nhân viên tờ Wall Street Journal
ký lá thư ngỏ cho rằng họ thấy cách tờ báo của họ tường thuật đề tài
chủng tộc là “có vấn đề”. Hơn 500 nhân sự tại tờ Washington Post
ủng hộ yêu cầu “chiến đấu chống lại phân biệt chủng tộc và phân
biệt đối xử”. Nhưng sâu xa hơn, cốt lõi của các cuộc tranh cãi này
vẫn là về bản chất và mục đích của báo chí.
Một thế hệ nhà báo mới đang đặt câu hỏi, liệu
khách quan có cần thiết không trong thế giới này. Lowery, nhà báo trẻ
30 tuổi đã có trong tay giải Pulitzer nay chuyển sang làm cho CBS News viết
trên Twiter: “Báo chí ám ảnh bởi tính khách quan, nhìn cả hai phía là
một thí nghiệm thất bại”. Hiệu trưởng trường đại học báo chí
Columbia nói với sinh viên tính khách quan là một khẩu hiệu xưa cũ được
thừa hưởng từ thế hệ trước.
Theo Economist, có bốn lý do giải thích cho
việc báo chí từ bỏ tính khách quan, trong đó có lý do chìu lòng
độc giả trả tiền như đã nói ở trên và sự xuất hiện của một nhân
vật độc đáo Donald Trump làm mọi cách thức đưa tin cổ điển không còn
hợp thời nữa. Lý do thứ ba là sự thay đổi thành phần của đội ngũ
nhà báo, ngày càng có thêm người da màu và phụ nữ mà đi kèm với
họ thường là các đề tài nóng như nữ quyền, tố cáo việc quấy rối
tình dục, phân biệt chủng tộc, phân biệt đối xử. Cuối cùng là sự phổ
biến lan truyền các mạng xã hội đã trao cho nhiều người chiếc micro
không nằm trong sự kiểm soát của giới chủ bút nữa. Người đọc đắm
mình trong mạng xã hội dày đặc ý kiến của phe này phe kia khi đọc
báo cũng đòi hỏi tờ báo của mình phải như thế hoặc đi tìm các tờ
báo cùng tiếng nói sôi nổi như thế.
Nhìn một cách khách quan (lại khách quan!), không nên
gán các khái niệm đao to búa lớn kiểu “hậu sự thật”, “hậu báo chí”
cho một xu hướng mới trong làng báo. Thế nhưng việc chuyển đổi sang
làm hài lòng người đọc để giữ chân họ lại là có thật ở nhiều mức
độ khác nhau. Với những tờ chưa thu được tiền từ người đọc mà chỉ
có thể đếm “click” để thu tiền quảng cáo do Google Adsense bán hộ, đó
có thể là các tít “treo đầu dê bán thịt chó” câu view, các loại tin
bài đánh vào thị hiếu bản năng của con người như tình, tù, tội,
tiền. Với các tờ đang dựng tường lửa bắt người đọc trả tiền, có
tờ khai thác thế mạnh “độc quyền thông tin” như các tờ chuyên ngành Wall
Street Journal, Financial Times, Economist; có tờ kêu gọi sự đóng góp
của độc giả như The Guardian, Vox. Với các tờ đại chúng như New
York Times, áp lực viết theo kỳ vọng của độc giả để họ tiếp tục
trả tiền thay cho nhà quảng cáo là có thật và họ đang phải trả giá.
Chỉ mong sau những năm đầy biến động như vừa qua, giới
làm báo sẽ quay về giá trị truyền thống như nhà báo Tom Rosenstiel
viết: “Nếu nhà báo thay thế việc hiểu sai về tính khách quan bằng
cách trốn vào chốn chủ quan rồi nghĩ ý kiến của họ có sự công
chính đạo đức cao hơn mọi sự tìm hiểu thật sự thì nền báo chí sẽ bị
đánh mất”.
No comments:
Post a Comment