Thở phào…
nhưng chưa nhẹ nhõm
Nguyễn Vạn Phú
Giáo dục là một trong những lãnh vực nhận nhiều lời ta thán mỗi khi có
hội nghị góp ý cho đầu tư nước ngoài. Một quy định mới vừa ra đời, có hiệu lực
từ ngày 1-8-2018, giải quyết được bao nhiêu phần trăm những than phiền này?
Nhà đầu tư
thường than gì?
Nhưng có lẽ trước hết cần điểm lại những vấn đề gây khó khăn
cho nhà đầu tư nước ngoài trong lãnh vực giáo dục, trước đây được điều chỉnh bởi
Nghị định 73/2012. Một trong những điểm được nhắc nhiều nhất là quy định cơ sở
giáo dục có vốn đầu tư nước ngoài được phép tuyển học sinh Việt Nam nhưng số học
sinh Việt Nam ở trường tiểu học và trung học cơ sở không quá 10% tổng số học
sinh của trường, ở trường trung học phổ thông không quá 20% tổng số học sinh của
trường. Học sinh Việt Nam dưới 5 tuổi không được tiếp nhận vào học chương trình
của nước ngoài.
Quy định này còn có thể hợp lý ở thời kỳ các trường quốc tế
mở ra chủ yếu cho con em nhà đầu tư hay nhà ngoại giao nước ngoài. Sau này có
những nhà đầu tư FDI muốn mở các trường quốc tế nhắm đến học sinh Việt Nam nhưng
xem như bó tay vì hạn mức này. Ở các trường quốc tế nổi tiếng thường học sinh
người Việt phải xếp hàng đợi hạn ngạch; đến nỗi có trường bày phụ huynh cho con
em tạm lấy quốc tịch Campuchia để vào học cho nhanh!
Thế nhưng với nhà đầu tư, điều gây bức xúc cho họ nhất là thủ
tục nhiêu khê khi thành lập một cơ sở giáo dục, bất kể đó chỉ là chi nhánh một
trung tâm ngoại ngữ hay một trường đại học bề thế. Nhà đầu tư phải xin cho được
ba loại giấy phép (giấy phép đầu tư, giấy phép thành lập, giấy phép hoạt động),
với những hồ sơ và thủ tục trùng lắp nhau. Mỗi loại giấy phép phải đi qua nhiều
cửa thẩm định, mất rất nhiều thời gian. Chính vì vậy, đọc tin tức thời sự, có
lúc chúng ta nghe trường đại học Fulbright được cấp giấy phép đầu tư, một thời
gian sau lại nghe Fulbright được trao giấy phép thành lập và thêm một thời gian
nữa trường này mới có giấy phép hoạt động.
Ở đây vấn đề con gà có trước hay quả trứng có trước cũng là
nỗi đau đầu của nhà đầu tư: họ phải đáp ứng nhiều điều kiện mới được cấp phép
nhưng chưa có giấy phép mà tuyển giáo viên, thuê hay xây cơ sở dạy học về để đó
rất lãng phí, tốn kém. Tuyển giảng viên có ít nhất 5 năm kinh nghiệm đã khó, phải
trả lương đầy đủ cho họ khi chưa có giấy phép hoạt động, tức chưa có doanh thu
càng khó hơn.
Nghị định 73 cũ cũng có những yêu cầu cao về vốn đầu tư, về
chương trình giảng dạy và đội ngũ giáo viên. Các yêu cầu này cũng nhằm bảo vệ
quyền lợi của người học nhưng đôi lúc không mang tính thực tế. Điều 31 quy định:
“Giáo viên, giảng viên là người nước ngoài giảng dạy tại các cơ sở đào tạo, bồi
dưỡng ngắn hạn, cơ sở giáo dục mầm non, cơ sở giáo dục phổ thông, cơ sở giáo dục
nghề nghiệp, cơ sở giáo dục đại học có vốn đầu tư nước ngoài ít nhất phải có
5 năm kinh nghiệm trong cùng lĩnh vực giảng dạy”. Với giảng viên đại học, yêu cầu
có 5 năm kinh nghiệm nghe còn tương đối chấp nhận được nhưng với một trung tâm
ngoại ngữ, nhiều lúc phải tuyển người bản ngữ làm thêm để kiếm thêm thu nhập thì
lấy đâu ra từng ấy năm kinh nghiệm.
Thật ra yêu cầu này đã được sửa đổi vào cuối năm 2014 (bằng
Nghị định 124), bỏ điều kiện phải có ít nhất 5 năm kinh nghiệm đối với giáo
viên là người nước ngoài giảng dạy tại các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng ngắn hạn, trường
mầm non, trường phổ thông.
Giải quyết
đến đâu?
Nghị định 86/2018, có hiệu lực từ đầu tháng này, được kỳ vọng
giải quyết hết mọi nỗi băn khoăn của nhà đầu tư, nhất là sau các góp ý của nhiều
tổ chức và lời hứa hẹn của các quan chức giáo dục. Thế nhưng có thể thấy cách
giải quyết là chưa triệt để, chẳng hạn, quy định hạn chế số lượng học sinh Việt
Nam tại các trường có vốn đầu tư nước ngoài (từ mầm non đến trung học phổ
thông) được nâng lên, từ 10% hay 20% lên thành không quá 50% chứ không phải gỡ
bỏ hoàn toàn.
Hay thủ tục thành lập các cơ sở giáo dục có vốn đầu tư nước
ngoài được đơn giản hóa nhưng chỉ cho cơ sở đào tạo bồi dưỡng ngắn hạn (chỉ còn
hai bước: cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư và cấp phép hoạt động giáo dục).
Các trường khác, từ mầm non đến đại học vẫn phải áp dụng quy trình ba bước: xin
cấp giấy chứng nhận đầu tư, xin cấp quyết định thành lập và xin cấp phép hoạt động
giáo dục.
Thật ra khi xin thành lập một trường đại học, đầu tiên Thủ
tướng Chính phủ ra quyết định chấp thuận chủ trương đầu tư trên cơ sở tờ trình
của các Bộ Kế hoạch-Đầu tư, Giáo dục-Đào tạo và các cơ quan liên quan. Bước này
là quan trọng nhất vì phải đi qua các cửa quan trọng; không biết vì sao sau đó
phải làm lại các thủ tục tương tự để thực hiện quy trình ba bước nói trên.
Cũng như quy định cũ, Nghị định 86 cũng yêu cầu các cơ sở
giáo dục từ mầm non đến phổ thông có nhận học sinh Việt Nam phải dạy những nội
dung bắt buộc (từ các môn Lịch sử, Địa lý, tiếng Việt). Tuy nhiên, cái mới là
nghị định sử dụng cụm từ “nội dung bắt buộc” thay vì “môn học bắt buộc” giúp
các trường có thể linh hoạt lồng ghép nội dung các môn thay vì có giờ dạy riêng
các môn bằng tiếng Việt.
Có một số nội dung Nghị định 86 nâng cao yêu cầu so với trước.
Chẳng hạn trước đây quy định tỉ lệ tiến sĩ trên giảng viên của các trường đại học
có vốn nước ngoài chỉ là 35% thì nay tăng lên 50%. Vốn của các trường đại học
trước đây chỉ cần 300 tỷ đồng thì nay được nâng lên thành 1.000 tỷ đồng (không
bao gồm chi phí sử dụng đất) cho tương xứng với yêu cầu về vốn đối với các trường
đại học trong nước.
Nặng nhất là quy định “Đến thời điểm thẩm định cho phép
thành lập trường đại học, giá trị đầu tư phải thực hiện được trên 500 tỷ đồng”.
Trong khi diện tích đất tối thiểu của các trường đại học tư trong nước phải đạt
5 hecta thì trường đại học có vốn đầu tư nước ngoài không chịu ràng buộc này,
chỉ trừ quy định: “Diện tích đất để xây dựng trường đạt bình quân ít nhất 25
m2/sinh viên tại thời điểm có quy mô đào tạo cao nhất”.
Tuy nhiên, theo chúng tôi, một vấn đề quan trọng mà cả Nghị
định 73 cũ và Nghị định 86 mới chưa chú ý là nội hàm của cơ sở giáo dục có vốn
đầu tư nước ngoài. Nghị định 73 không đề cập còn Nghị định 86 định nghĩa “Cơ sở
giáo dục có vốn đầu tư nước ngoài là cơ sở giáo dục do tổ chức kinh tế có vốn đầu
tư nước ngoài bỏ vốn đầu tư”.
Định nghĩa như thế là còn bỏ sót các cơ sở giáo dục,
mặc dù vốn là của người trong nước, nhưng sau đó lại thuê các tổ chức nước
ngoài điều hành, giảng dạy y như một trường có vốn đầu tư nước ngoài. Bởi các
trường như thế đang giảng dạy theo chương trình nước ngoài, sử dụng tiếng Anh
hay một ngoại ngữ khác làm ngôn ngữ giảng dạy và có thể cấp bằng nước ngoài.
Loại
hình trường “quốc tế” như thế hiện có nhiều và gây hiểu nhầm ở phụ huynh học
sinh. Cần xác định những trường như thế có bị chi phối bởi những ràng buộc về
chương trình đào tạo, đội ngũ giáo viên như trường có vốn đầu tư nước ngoài hay
không.