Tranh cãi
thương mại: Ai đúng, ai sai?
Chiến tranh thương mại đã dẫn tới những tranh cãi không ngớt
về những khái niệm cơ bản trong ngoại thương. Nguyên do là bởi những chính sách
liên quan hiện nay của chính quyền ông Donald Trump đều ít nhiều xuất phát từ
cách hiểu những khái niệm này.
Thâm hụt
thương mại – xấu hay bình thường?
Tổng thống Mỹ, ông Donald Trump rất ghét thâm hụt mậu dịch. Ông
tuyên bố, mỗi năm Mỹ “mất” 800 tỷ đô-la, “không phải nửa triệu hay 12 cent, mỗi
năm chúng ta thiệt mất 800 tỷ đô-la trong thương mại”. Phần “mất” lớn nhất là rót
cho Trung Quốc, mỗi năm, theo ông, chừng 500 tỷ đô-la mặc dù con số chính thức
thâm hụt mậu dịch của Mỹ với Trung Quốc chưa bao giờ vượt quá 375 đô-la/năm.
Từ
lâu quan điểm của ông Trump về thâm hụt thương mại cho đây là điều xấu, gây cản
trở cho tăng trưởng kinh tế; giảm thâm hụt sẽ tạo công ăn việc làm cho dân Mỹ
và thuế là công cụ tốt nhất để san bằng thâm hụt.
Hầu hết các nhà kinh tế trên thế giới đều không cho khoản
thâm hụt thương mại là “mất”, không ai nghĩ thâm hụt thương mại là thiệt hại. Sự
khác biệt giữa xuất và nhập chỉ là thước đo lượng hàng hóa và dịch vụ dịch chuyển
qua biên giới, nó có thể phản ánh nhiều yếu tố vĩ mô như xu hướng đầu tư nước
ngoài, tỷ giá, và mức độ tăng trưởng GDP khác nhau.
Lấy ví dụ Việt Nam, trong một thời gian dài, chịu thâm hụt
thương mại khá lớn; ngoại tệ ở đâu ra để chúng ta đi mua hàng hóa của nước
ngoài nhiều hơn hàng hóa xuất đi? Cán cân thanh toán của một nước chủ yếu gồm
tài khoản vãng lai (chủ yếu là mua bán với nước ngoài) và tài khoản vốn (chủ yếu
là đầu tư nước ngoài, vốn vay…) Thâm hụt thương mại làm tài khoản vãng lai bị hụt
nhưng sẽ được bù đắp nhờ nguồn vốn đầu tư nước ngoài rót vào tài khoản vốn.
Có thể lý giải: những năm thâm hụt là do các dự án đầu tư nước
ngoài phải nhập đủ loại máy móc, thiết bị, nguyên liệu để triển khai. Đến nay
thương mại có lúc thặng dư là bởi các dự án FDI đã đi vào hoạt động, đã có hàng
bán ra nước ngoài. Vậy thâm hụt thương mại trong trường hợp này có gì là xấu và
nay thặng dư cũng không có gì là mừng vì có thể xem đây là dấu hiệu đầu tư đã
bão hòa!
Với Mỹ, do đồng tiền trong ngoại thương là đô-la Mỹ nên càng
có nhiều thuận lợi hơn nước khác trong việc bù đắp thâm hụt. Với Việt Nam hay
các nước khác, để bù đắp cho thâm hụt phải trông cậy vào dòng vốn FDI nhưng Mỹ
thì không cần. Thiếu tiền trong tài khoản vãng lai, họ chỉ việc bán trái phiếu
để vay vốn giá rẻ khắp thế giới bù vào – tất cả đều tính bằng đô-la Mỹ. Với các
nước khác thâm hụt thương mại lâu dài có thể gây sức ép lên tỷ giá nhưng với Mỹ
thì không, đâu có vấn đề tỷ giá đâu mà lo.
Thế nhưng đây cũng chính là lý do một số nhà kinh tế nói, với
Mỹ, thâm hụt thương mại là dấu hiệu xấu: Mỹ đang vay của tương lai để mua của thế
giới về ăn tiêu chứ không chịu đầu tư vào sản xuất. Với nước khác thâm hụt
thương mại là sức ép để điều chỉnh nhằm tìm sự cân bằng còn Mỹ do không chịu sức
ép nào nên cứ thoải mái nhập hàng từ khắp nơi chứ không chịu nâng mức tiết kiệm.
Thuế - vũ
khí đắt giá?
Để giải quyết thâm hụt thương mại, chính quyền ông Trump cho
rằng thuế là vũ khí hiệu quả nhất bởi nâng thuế nhập khẩu sẽ làm nản chí hàng
nhập khẩu, khuyến khích dân chúng mua hàng nội địa. Các nhà kinh tế Mỹ lại cho
rằng tỷ giá mới là yếu tố quan trọng nên trước đó Mỹ tìm cách ép Trung Quốc phải
nâng giá đồng tiền họ lên, chứ không phải phá giá. Giá đồng tiền mạnh lên, người
dân sẽ thấy mua hàng nhập khẩu có lợi hơn thì tự khắc vấn đề thâm hụt thương mại
được giải quyết.
Thực tế cho thấy thuế và các hàng rào khác không có tác dụng
gì lên thâm hụt hay thặng dư trong ngoại thương. Những nước có hàng rào thuế thấp
nhất như Singapore hay Thụy Sĩ lại có thặng dư thương mại lớn trong khi những
nước áp thuế cao như Brazil hay Ấn Độ lại bị thâm hụt mậu dịch.
Với một nước cụ thể, áp thuế lên 100 mặt hàng này thì nhập
khẩu của 100 mặt hàng đó có thể giảm nhưng dân chúng lại chuyển qua nhập 100 mặt
hàng khác, không có thuế nên cuối cùng về tổng thể, thuế sẽ không tạo ra sự
thay đổi gì nhiều. Thuế nhắm vào một nước xuất khẩu nào đó có thể giảm kim ngạch
mua bán với nước đó nhưng kim ngạch mua bán với nước khác sẽ tăng lên để bù vào.
Còn áp thuế lên hết mọi mặt hàng, với mọi nước sẽ làm giảm cả nhập khẩu lẫn xuất
khẩu, tác động xấu lên năng suất và làm tăng lạm phát.
Mỹ nhập nhiều
hơn Trung Quốc nên đủ “bài” để “tố”
Một lập luận cũng thường gặp nữa, lần này không xuất phát từ
kinh tế gia của hai phe chống và ủng hộ Trump mà từ những người quan sát. Có
người cho rằng do Mỹ nhập khẩu từ Trung Quốc nhiều hơn Trung Quốc nhập từ Mỹ
(năm 2016, Mỹ bán qua Trung Quốc 115,6 tỷ đô-la và mua từ Trung Quốc 462,6 tỷ
đô-la hàng hóa) nên Mỹ có thể đánh thuế lên 34 tỷ đô-la hàng nhập rồi dọa đánh
thêm 200 tỷ đô-la nữa chứ Trung Quốc có trả đũa thì đánh đến 115,6 tỷ là hết. Với
cán cân thương mại như thế Mỹ có thể dọa thuế lên đến 462,6 tỷ đô-la trị giá
hàng hóa chứ không phải đùa.
Lập luận này nghe qua rất hợp lý và chính xác nhưng đã bỏ
qua yếu tố thuế gây hại chính bản thân nước áp dụng như thế nào. Giả thử Mỹ
đánh thuế trừng phạt lên mọi mặt hàng nhập từ Trung Quốc thì đúng là họ có lượng
hàng nhiều hơn phía Trung Quốc đến 4 lần để dọa nhưng vì thế cũng sẽ chịu thiệt
hại gián tiếp gấp 4 lần.
Trong đợt áp thuế đầu tiên, đến 95% hàng hóa nhập từ Trung
Quốc là đầu vào của các ngành sản xuất khác ở Mỹ nên thuế tăng, tức giá thành đầu
vào tăng sẽ gây khó khăn cho những nhà sản xuất này. Còn tính chung toàn bộ
hàng nhập khẩu thì có đến 60% là hàng trung gian cho nên thuế sẽ tác động trực
tiếp lên hàng loạt doanh nghiệp Mỹ, từ đó tác động xấu lên công ăn việc làm và
tăng trưởng kinh tế. Nói cách khác, áp thuế lên hàng hóa của nhau thì người
tiêu dùng cả hai đều bị thiệt thòi nhưng tiêu dùng Mỹ thiệt thòi gấn 4 lần tiêu
dùng Trung Quốc. Nhìn từ phía xuất khẩu, đúng là nhà xuất khẩu Trung Quốc chịu
nhiều sức ép hơn nhưng chỉ cần Trung Quốc phá giá đồng tiền của nước họ để tìm
lại sức cạnh tranh cho hàng hóa thì coi như hóa giải vũ khí thuế của Mỹ.
Một yếu tố khác, quan trọng hơn là trong tổng số 462,6 tỷ
đô-la hàng hóa mà Mỹ mua của Trung Quốc vào năm 2016 chỉ có một tỷ trọng nhỏ là
hàng thuần Trung Quốc, còn lại là hàng của các nước khác đang sản xuất tại
Trung Quốc để bán đi khắp thế giới như điện thoại iPhone của chính nước Mỹ. Áp
thuế như vậy khác nào bắn vào chân mình.
Với cuộc tranh cãi về các khái niệm cơ bản trong ngoại
thương, rất khó phân định ai đúng ai sai. Mới nhìn qua thì hầu như mọi kinh tế
gia có tiếng đều chê bai chính sách của ông Trump nhưng cũng có người nói, lập
luận theo cách hiểu truyền thống đã kéo dài hàng chục năm nay, kéo theo hàng
triệu công nhân Mỹ mất việc. Nay Trump có thể nói sai lý thuyết nhưng tỷ lệ thất
nghiệp ở Mỹ đang xuống mức thấp nhất, tăng trưởng GDP lại cao nhất thì lý giải
như thế nào?
Thực tế cho thấy sau khi Mỹ dọa đánh thuế lên thêm 200 tỷ đô-la
hàng hóa nữa thì phía Trung Quốc giữ thái độ im lặng, dè chừng chứ không tuyên
bố trả đũa ngay nữa. Có thể họ đang tìm cách hạn chế thiệt hại, đã hiển hiện
trên thị trường chứng khoán, tỷ giá và xu hướng dòng vốn chuyển đi nơi khác.
Có lẽ phải chờ thêm một thời gian nữa mới biết rốt cuộc ai
đúng ai sai hay đúng ra, ai có thần kinh thép cứng hơn đối thủ trong cuộc đối đầu
này.