Tình hình kinh tế Việt Nam đang như thế nào?
Một câu hỏi thường trực trong
tâm trí nhiều người là sức khỏe kinh tế thực sự đang ra sao mà thấy sao có
nhiều dấu hiệu trái ngược nhau quá. Nhìn quanh, ai cũng nói chuyện doanh nghiệp
tư nhân rơi rụng đến con số hàng chục ngàn, thậm chí cả trăm ngàn, ai cũng có
quen biết với một người vừa mới thất nghiệp và ai cũng thấy làm ăn ngày càng
khó khăn, thậm chí đến chỗ bế tắc. Các đại biểu Quốc hội than nghe còn bi đát
hơn như “Tình hình kinh tế gay go lắm rồi”.
Nhưng lùi lại một chút, nhìn vào
các chỉ số quan trọng thì thấy tình hình đang cải thiện: lạm phát được kềm chế,
tỷ giá ổn định, cán cân thương mại tương đối cân bằng, xuất khẩu tăng trưởng
tốt, và đặc biệt thị trường chứng khoán đang ấm dần lên.
Tìm đâu ra một góc nhìn khách
quan, có thể tin cậy được!
Trong một tài liệu bằng tiếng
Anh tôi được đọc qua, Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright kết hợp với
Trung tâm Ash thuộc trường Harvard Kennedy School lại một lần nữa đưa ra những
nhận định sắc bén, phân tích thẳng những vấn đề của nền kinh tế.
Trước hết bản báo cáo cho rằng
Việt Nam
vừa thoái khỏi một tình hình nguy cấp, nền kinh tế suýt đổ vỡ cách đây khoảng
12 tháng. Nhưng nền kinh tế không phải đang phục hồi mà đúng hơn là rơi vào
tình trạng trì trệ kéo dài. Muốn thoái khỏi tình trạng này, Việt Nam
phải dọn dẹp hệ thống ngân hàng, tiếp tục cải tổ khối doanh nghiệp nhà nước và
hồi sức cho khu vực tư nhân trước khi thành tựu của 14 năm qua bị xóa sạch.
Tuy nhiên dường như không ai
muốn hành động gì, không muốn thay đổi hiện trạng vì 5 nhầm tưởng (myths) khá phổ biến trong giới lãnh đạo.
-
Nhầm rằng:
Khủng hoảng đã qua, tình hình đang dần cải thiện (nên không cần làm gì cả);
-
Nhầm rằng:
Giải quyết nợ xấu của hệ thống ngân hàng không cần phải dùng đến ngân sách Chính
phủ (nên vốn VAMC chỉ có 500 tỷ đồng);
-
Nhầm rằng:
Các tập đoàn, tổng công ty có thể tự tái cấu trúc bằng các kế hoạch do chính họ
soạn thảo (theo kiểu tự mình nắm đầu tóc kéo lên khỏi bùn);
-
Nhầm rằng:
Có thể phục hồi khu vực tư nhân bằng các biện pháp tài khóa (giảm thuế) và tiền
tệ (giảm lãi suất) (trong khi thực tế các thành tựu của Luật Doanh nghiệp đang
gần như bị xóa sổ dần);
-
Nhầm rằng:
Khu vực nông nghiệp có thể tiếp tục là tấm đệm, giảm sốc cho nền kinh tế, thu
nhận hết lượng lao động công nghiệp bị mất việc (thực tế nền nông nghiệp rất dễ
bị tổn thương, môi trường đang ô nhiễm, sức nông dân đã cạn).
Khác với lần khủng hoảng cuối
thập niên 1990, lúc đó Việt Nam đã đưa ra những cải cách mạnh mẽ, nhất là việc
cho ra đời Luật Doanh nghiệp năm 2000 nên kinh tế phục hồi nhanh chóng và bền
vững trong nhiều năm liền, lần này chính sách chỉ thấy xoay quanh hai chuyện
“nới lỏng” và “thắt chặt” nên nền kinh tế cứ giật cục, tăng trưởng cao thì lạm
phát nhiều, kềm chế lạm phát thì kinh tế trì trệ. Ba chương trình cải cách lớn
về doanh nghiệp nhà nước, hệ thống ngân hàng và đầu tư công hầu như chưa triển
khai được gì cụ thể. Nợ xấu mà giải quyết theo cách như hiện nay chỉ là tạm
thời khoanh nó lại, chuyển sang tương lai.
Nếu cứ để yên như thế này thì nền kinh tế sẽ chỉ còn tăng trưởng khoảng
3%, khó khăn kéo dài, doanh nghiệp tư nhân tiếp tục phá sản, thất nghiệp tiếp
tục lan rộng.
Riêng tôi chỉ bổ sung thêm một
ý: Nền kinh tế Việt Nam
trước nay phát triển chủ yếu nhờ yếu tố vốn. Nay tín dụng không tăng thì làm
sao có tăng trưởng? Tín dụng chắc chắn sẽ không tăng mạnh vì ngân hàng đang lo
dọn dẹp lại bảng cân đối tài chính cho lành mạnh, doanh nghiệp cũng không còn
sử dụng đòn bẩy nợ mạnh mẽ như trước, sức lực cũng không còn để đi vay chịu rủi
ro. Nợ xấu mà giải quyết theo cách kéo dài trong năm năm thì ngân hàng càng
không có sức lực hay động lực đâu để cho vay. Trong bối cảnh đó, như một quy
luật bù trừ về khoản trống vốn, nhiều lãnh vực quan trọng của nền kinh tế tiếp
tục rơi vào tay đầu tư nước ngoài, kể cả trực tiếp lẫn gián tiếp.