Lập lại kịch
bản nào – BTA hay WTO?
Lịch sử hội nhập kinh tế của
Việt Nam
chưa lâu nhưng đã cung cấp khá nhiều bài học. Ký Hiệp định Thương mại song
phương (BTA) với Mỹ là bước ngoặc giúp Việt Nam ra khỏi nhiều năm dài trì trệ
sau khủng hoảng tài chính khu vực, khu vực kinh tế tư nhân cất cánh, kim ngạch
xuất khẩu sang Mỹ tăng vọt. Năm 2002, năm đầu tiên ký BTA, xuất khẩu của Việt
Nam sang Mỹ tăng lên mức 2,4 tỷ đô-la, tăng bốn lần so với năm 1999 và xuất
khẩu hàng may mặc năm đó là 952 triệu đô-la, tăng gần 20 lần so với mức 49
triệu đô-la của năm trước đó. Tính đến năm 2012, xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ đạt mức 20,3 tỷ đô-la, trong đó có
7,7 tỷ đô-la hàng dệt may (số liệu của AmCham Vietnam ).
Ngược lại cột mốc gia nhập Tổ
chức Thương mại thế giới (WTO) chỉ đánh dấu sự bùng nổ thị trường chứng khoán,
địa ốc, ngân hàng thành những bong bóng mà di chứng vẫn còn lại đến nay. Theo
nghiên cứu của Bộ Kế hoạch & Đầu tư, tình hình kinh tế năm năm sau WTO thua
xa năm năm trước đó về nhiều mặt, kể cả tốc độ tăng trưởng GDP, chất lượng tăng
trưởng, xuất nhập khẩu. Xuất khẩu tăng nhưng phần tăng mạnh nhất rơi vào tay
khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (năm 2012, tốc độ tăng xuất khẩu của khu vực
FDI là 33,5% trong khi xuất khẩu trong nước chỉ tăng vỏn vẹn 1,3%, kim ngạch
của nhóm FDI lên đến 63,9 tỷ đô-la so với nhóm trong nước – 42,3 tỷ đô-la).
Sự khác nhau giữa hai lần hội
nhập này là gì. Là sự chuẩn bị và nỗ lực cải cách nền kinh tế một cách cơ bản ở
lần đầu, đặc biệt là sự ra đời của Luật Doanh nghiệp và bước phát triển nhảy
vọt của khu vực kinh tế tư nhân. Và là sai lầm trong định hướng chính sách ở
lần sau khi nguồn lực được rót vào các doanh nghiệp nhà nước, để nơi này nhảy
vào kinh doanh đa ngành nghề, bỏ quên năng lực chính. Ở lần đầu doanh nghiệp
đầu tư làm hàng xuất khẩu vào Mỹ để tận dụng cơ hội BTA; ở lần sau cơ hội này
rơi vào tay doanh nghiệp FDI vì doanh nghiệp trong nước bận mở rộng kinh doanh,
nhảy vào ngành nghề trái cựa như địa ốc.
Vậy, có thể kỳ vọng gì ở lần hội
nhập sắp tới khi Việt Nam
tham gia Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương với 11 quốc gia khác?
Đó có thể là sự phục hồi của nền
kinh tế nếu nhà nước có những bước đi chủ động chuẩn bị đón nhận cơ hội. Lấy ví
dụ ngành may mặc đang lo lắng vì nguyên tắc phải dùng nguyên liệu nội khối. Nếu
nhà nước chuyển hướng cho các tập đoàn kinh tế nhà nước đầu tư vào các ngành
mới như sản xuất sợi, dệt, nhuộm và các loại nguyên phụ liệu khác thì cơ hội sẽ
được tận dụng. Nếu nhà nước lắng nghe tiếng nói của doanh nghiệp đang cần sự hỗ
trợ về mặt chính sách để tận dụng cơ hội thì sự thể có thể sẽ khác. Nếu nguồn
lực xã hội không bị lãng phí vào chuyện giải cứu bất động sản hay ngân hàng hay
tập đoàn kinh tế gần phá sản thì cơ may vẫn còn đó.
Nhưng đó cũng có thể là cơ hội
mất đi vào tay các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, đang rất nhanh nhạy tìm
cách đầu tư đón đầu cơ hội. Với sự hậu thuẫn của chính phủ nước họ trên bàn đàm
phán, có thể một lần nữa chúng ta lại thua ngay trên sân nhà.
Rất có thể xung lực từ tiềm năng
trở thành thành viên của TPP sẽ lôi kéo đầu tư nước ngoài, cả trực tiếp lẫn
gián tiếp, mạnh mẽ như thời mới vào WTO. Và cũng rất có thể doanh nghiệp trong
nước một lần nữa nhảy vào các cơ hội ngắn hạn, mang tính đầu cơ chứ không nghĩ
đến chiến lược kinh doanh lâu dài. Như vậy cơ hội hay thách thức chính là do nội
lực của doanh nghiệp chứ không phải ai khác.
Một điều đáng buồn là cũng như
lần gia nhập WTO, một trong những kỳ vọng của mọi người là sức ép từ đàm phán
và thực hiện TPP sẽ giúp minh bạch hóa quá trình ra chính sách, quá trình đấu
thấu mua sắp chính phủ, tạo dựng môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa doanh
nghiệp tư nhân và doanh nghiệp nhà nước. Tại sao lại cần sự dựa vào sức ép TPP
trong khi đây là những điều hoàn toàn nằm trong khả năng và tầm tay của chúng
ta. Cái trở ngại chính là tệ nạn tham nhũng, là lợi ích nhóm trái phép và là
lợi ích cá nhân. Vì thế chỉ nên xem TPP như là bộ lọc giúp phát hiện các tệ nạn
này nhanh hơn, khách quan hơn và giải quyết triệt để hơn.
Bà Phạm Chi Lan, nguyên thành
viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ, đã phải thốt lên tại buổi tọa đàm
về TPP tuần trước tại TBKTSG: Câu hỏi
lớn nhất với bản thân tôi mà tôi chưa giải đáp được là với TPP, chúng ta sẽ có
kết quả như với BTA ký với Hoa Kỳ hay như thời điểm sau khi vào WTO… Với BTA
thì chúng ta từ đáy dốc đi lên còn vào WTO rồi thì chúng ta từ đỉnh dốc đi
xuống. Hiện chúng ta đang ở đáy dốc rồi nên mong muốn của tôi là TPP sẽ là cú
hích mới như BTA chứ không phải theo kiểu của WTO.
Mong muốn có lẽ phải đi kèm với
hành động thì kịch bản tốt nhất mới diễn ra.