Nợ chưa xấu
mới đáng lo
Ngân hàng X cho doanh nghiệp Y
vay 100 tỷ đồng, nhận thế chấp bằng một công trình bất động sản trị giá 140 tỷ
đồng. Quá hạn trả nợ đã hơn một năm nay nhưng doanh nghiệp Y làm ăn thua lỗ,
không trả được cho ngân hàng X đồng nào, cả lãi lẫn vốn. Theo quy định, X phải
xếp khoản nợ này vào nhóm 5 và phải trích lập dự phòng rủi ro 100%, tức trích
lập 30 tỷ đồng (100 tỷ trừ cho 50% của 140 tỷ; 50% là tỷ lệ áp dụng cho tài sản
thế chấp là bất động sản).
Theo quy định kế toán 30 tỷ đồng
này là con số âm, đã khấu trừ vào lãi của ngân hàng X hay không còn lãi thì trừ
vào vốn chủ sở hữu. Điều này có nghĩa nếu đã phân loại một khoản nợ là nợ xấu
nhóm 5 thì ngân hàng coi như đã chấp nhận một khoản thiệt hại rồi. Chính vì vậy
cụm từ “dự phòng rủi ro” không chính xác bằng cụm từ tiếng Anh tương ứng là “loan loss provision”, tức dành ra một
khoản để bù vào tiền cho vay có khả năng bị mất.
Có hăm hở bán nợ xấu?
Nay xuất hiện Công ty Quản lý
tài sản (VAMC) sẽ mua khoản nợ này từ ngân hàng X. Chuyện gì sẽ xảy ra? VAMC sẽ
mua theo giá sổ sách trừ đi khoản trích lập dự phòng, nghĩa là mua nợ với giá
70 tỷ đồng và trao cho ngân hàng X 70 tỷ đồng trái phiếu. Ngân hàng X sau này
có thể đem 70 tỷ đồng trái phiếu này lên Ngân hàng Nhà nước để được vay tái cấp
vốn, tức chuyển trái phiếu thành tiền thật để kinh doanh. Nhưng đồng thời mỗi
năm Ngân hàng X phải trích lập dự phòng rủi ro 20% (14 tỷ đồng) sao cho sau năm
năm họ có 70 tỷ đồng để khi lấy khoản nợ xấu kia về thì có sẵn tiền để xử lý.
(VAMC còn có thể mua nợ theo giá thị trường nhưng sẽ rất ít có trường hợp này)
Hãy xem Ngân hàng X có động cơ
mạnh mẽ nào để bán nợ xấu cho VAMC hay không (ngoài chuyện bắt buộc phải bán)? Động
cơ đầu tiên là được nhận tái cấp vốn từ NHNN, có tiền để kinh doanh (tỷ lệ được
cấp chưa quy định rõ). Nhưng tình hình hiện nay, các ngân hàng đang ngồi trên đống
tiền mà không cho vay được, họ phải đem tiền đi mua trái phiếu chính phủ, động
lực nhận tái cấp vốn từ NHNN là không cao đối với nhiều ngân hàng.
Thế mà khi đồng ý tham gia cuộc
chơi, trong chi phí hoạt động mỗi năm phải gánh thêm 20% khoản trích lập dự
phòng cho trái phiếu nhận từ VAMC, hay nói cách khác họ phải bắt tay vào quá
trình xử lý hẳn khoản nợ xấu, dù được kéo dài thành 5 năm, nhưng cũng là gánh
nặng kinh doanh.
Hiện nay nhiều người thắc mắc vì
sao ngân hàng không xử lý hẳn nợ xấu, nhất là nợ nhóm 5 đã trích lập 100% vì đâu
mất thêm tiền? Theo quy định, ngân hàng có quyền bán tài sản đảm bảo một khi
khách hàng không trả được nợ nhưng với tài sản đảm bảo là bất động sản thì phải
bán cho được trong vòng 2 năm. Nếu sau 2 năm mà không bán được xem như giá trị
tài sản đảm bảo bằng 0 và lúc đó ngân hàng phải trích lập dự phòng đầy đủ
(trong trường hợp trên là trích thêm 70 tỷ đồng nữa). Bán với giá cao thì không
nói làm gì nhưng giả thử chỉ bán được 50 tỷ đồng thì ngân hàng phải bù thêm 20
tỷ đồng nữa. Với tình hình thị trường địa ốc trầm lắng như hiện nay không ai
dám liều lĩnh cả nên ngân hàng mới phải thỏa thuận với con nợ để liên tục đảo
nợ, giữ nguyên hiện trạng thì có lợi cho cả đôi bên!
Dĩ nhiên với những món nợ xấu
nhóm 3 và nhóm 4 thì tình hình có khác. Bởi tỷ lệ trích lập thấp hơn (20% và
50%) nên động lực bán nợ có thể cao hơn. Trong tình hình bất động sản rất khó
bán như hiện nay, giá trị giảm mạnh, việc trích lập càng không đầy đủ - cũng là
những yếu tố thúc đẩy việc bán nợ cho VAMC, nhất là những ngân hàng đang thiếu
thanh khoản. Nhưng bản chất việc bán nợ như thế cũng chỉ là tạm thời đưa nợ xấu
ra khỏi ngân hàng, cho vào “kho hàng VAMC” và ngân hàng phải dần dần trong 5
năm xử lý cho hết đống nợ này chứ thật sự không bán cho ai cả. Nhìn theo góc độ
đó, mô hình VAMC còn tốt hơn là ngân hàng không làm gì, nợ xấu đè nặng bản cân
đối kế toán làm tê liệt hoạt động của ngân hàng.
Không biết từ đâu có ý nghĩ cho
rằng không thể dùng tiền ngân sách để xử lý nợ xấu và ý nghĩ này được chia sẻ
rộng rãi (ai sai nấy chịu không thể bắt dân chịu thông qua tiền thuế). Vì thế mô
hình VAMC không thể đặt nặng chuyện mua đứt bán đoạn nợ xấu theo giá thị trường
– mà chỉ có cách này mới thật sự giải quyết vấn đề nợ xấu một cách dứt khoát.
Thế còn nợ chưa xấu?
VAMC sẽ chỉ đụng đến nợ xấu, tức
nợ thuộc nhóm 3, 4 và 5, là nợ quá hạn từ 90 ngày đến trên 360 ngày. Điều đó có
nghĩa một khối lượng nợ xấu thật sự nhưng chưa được xếp vào các nhóm này nên
trên danh nghĩa vẫn chưa là nợ xấu, không được giải quyết lần này. Đó là loại
nợ gì?
Đầu tiên là những khoản nợ của
các tập đoàn kinh tế nhà nước như Vinashin bởi nợ loại này được tạm thời khoanh
lại, chưa phân loại, chưa trích lập dự phòng. Con số cụ thể rõ ràng là không dễ
có nhưng chắc chắn là rất lớn, từ vài chục ngàn đến cả trăm ngàn tỷ đồng.
Thứ hai, lớn hơn nhiều lần là
các khoản lẽ ra là nợ xấu nhưng nhờ “cơ cấu lại” nên biến thành chưa xấu. Theo
báo cáo của NHNN tại kỳ họp Quốc hội vừa qua, tính đến cuối tháng 4-2013, có
đến 284,4 nghìn tỷ đồng được cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm theo
Quyết định số 780/QĐ-NHNN. Nói cách khác, nếu không áp dụng Quyết định 780 thì cho
đến nay có lẽ đã có thêm gần 300.000 tỷ đồng nợ xấu! Nhưng một điều chắc chắn trước
sau gì con số khổng lồ này cũng trở thành nợ xấu một cách chính thức, vấn đề là
trì hoãn thừa nhận chúng đến bao giờ mà thôi. Cũng theo NHNN, nhờ “cơ cấu lại”
như thế mà tỷ lệ nợ xấu chính thức đến cuối tháng 4-2013 là 4,67% (con số tuyệt
đối là 137,1 nghìn tỷ đồng). Còn nếu không, tỷ lệ nợ xấu đã lên 11,5% (con số
tuyệt đối là 362,8 nghìn tỷ đồng).
Chính NHNN trong báo cáo nói
trên phải đưa ra nhận định: “Nếu các biện pháp tự xử lý nợ xấu của TCTD và cơ cấu
lại nợ theo Quyết định 780/QĐ-NHNN không được hỗ trợ tích cực bởi sự phục hồi
kinh tế, thực thi có hiệu quả các giải pháp điều hành kinh tế vĩ mô, tháo gỡ
khó khăn cho sản xuất kinh doanh, hỗ trợ thị trường bất động sản và thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế thì nợ xấu tiềm ẩn rất lớn, xử lý khó khăn hơn và có nguy
cơ tăng mạnh”.
Các khoản nợ “chưa xấu” này mới
thật sự đáng lo vì chưa được trích lập dự phòng rủi ro đầy đủ nên một khi bộc
lộ ra thì ngân hàng phải chịu ghi nhận thiệt hại rất lớn. Với quy mô như nói
trên thì khả năng nhiều ngân hàng mất hết vốn chủ sở hữu cũng chưa đủ để xử lý
nợ “chưa xấu” này. Chính vì thế, việc các ngân hàng ngại ngần cho vay hiện nay
không hẳn là do nợ xấu (đã trích lập đầy đủ) mà do nợ “chưa xấu” (chưa trích
lập nên còn khả năng gây mất mát).