Trông chờ
ngoại lực!
Đúng vào ngày cuối cùng của năm 2013, hãng tin Reuters đưa
tin Việt Nam sẽ sửa những quy định hiện hành để cho nhà đầu tư nước ngoài có thể
sở hữu tối đa đến 60% một số loại công ty niêm yết thay vì chỉ 49%. Mặc dù đây
là tin không đầy đủ và báo trong nước đã đăng cách đó cả hai tuần, thị trường
chứng khoán vẫn phản ứng tích cực (hình như có tâm lý tin nước ngoài có vẻ đáng
tin hơn chăng?) – hàng loạt cổ phiếu tăng giá mạnh.
Tăng tỷ lệ cho người nước ngoài sở hữu cổ phiếu, mở rộng cửa
tối đa cho người nước ngoài mua nhà ở Việt Nam, tích cực đàm phán Hiệp định đối
tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) để thu hút thêm đầu tư nước ngoài... dường như
không chỉ thị trường mà cả nhà làm chính sách cũng đang kỳ vọng đầu tư nước
ngoài sẽ là liều thuốc cứu tinh cho nền kinh tế Việt Nam, đưa nó ra khỏi tình
trạng suy trầm, thậm chí có thể nói là bế tắc. Liệu đây có phải là kỳ vọng hợp
lý, liệu năm 2014 sẽ chứng kiến sự phục hồi kinh tế dựa vào ngoại lực?
Trước khi trả lời câu hỏi này, thiết tưởng phải định bệnh
chính xác cho nền kinh tế bởi các biểu hiện tăng trưởng thấp, nợ xấu cao, sức
mua yếu, nhiều doanh nghiệp đóng cửa ngừng hoạt động... không phải là nguyên
nhân mà chỉ là hệ quả.
Không cần dẫn các con số thống kê chính thức như tăng trưởng
GDP, có lẽ ai cũng đồng ý nền kinh tế đang tăng chậm lại trong những năm gần
đây, từ đó gây ra những biểu hiện nói trên. Nguyên nhân chủ yếu là do tính cạnh
tranh của nền kinh tế đã giảm mạnh; tính cạnh tranh giảm mạnh là do nhiều
nguyên nhân như chi phí sản xuất tăng quá nhanh, có một thời gian ai ai cũng
lao vào địa ốc, chứng khoán, tức hăm hở làm giàu nhờ nền kinh tế ảo chứ không
quan tâm đến nền kinh tế thật nữa. Nói đến chi phí sản xuất, có lẽ ai cũng thấy
tiền lương danh nghĩa ở nước ta tăng quá nhanh do lạm phát – lương tăng mà mức
sống hầu như không thay đổi cho nên thực tế xem như không tăng gì cả. Vấn đề ở
chỗ mức lương này tính bằng ngoại tệ thì tăng thật, tăng mạnh và làm cho sức cạnh
tranh của lao động Việt Nam giảm mạnh so với trước. Ví dụ ngày xưa lương của
công nhân may mặc có thể chỉ là 100 đô-la, tức chừng 1,6 triệu đồng/tháng, công
nhân xoay xở cũng tạm qua ngày. Nay mức lương này phải chừng 4 triệu đồng/tháng
mới duy trì được mức sống tương đương. Nhưng, thử tính mà coi, lúc này mức
lương này đã gần bằng 200 đô-la/tháng thì những ai làm kế hoạch kinh doanh dựa
trên mức lương công nhân 100 đô-la/tháng xem như bỏ cuộc.
Trong khi đó, giá trị tài sản ở Việt Nam sau khi trở thành
thành viên WTO tăng vọt không theo quy luật gì cả. Bất kỳ ai bỏ tiền đầu tư vào
địa ốc đều trúng lớn, gấp cả chục lần so với ngành nghề kinh doanh chính của họ
như thủy sản, may mặc, thủ công mỹ nghệ, sản xuất hàng tiêu dùng nội địa... Giá
trị tài sản đó còn là mức định giá cổ phần doanh nghiệp, làm ai nấy đều hăm hở
tưởng mình giàu đến nơi. Giá trị tài sản tăng kéo theo lượng tiền tăng tương ứng,
là nguyên nhân của các đợt lạm phát cao trong mấy năm liền. Để khống chế lạm
phát, lãi suất phải được nâng lên – lại là tác nhân làm chi phí sản xuất tăng vọt
thêm nữa, làm xói mòn thêm nữa năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong nước.
Tất cả những yếu tố này làm doanh nghiệp trong nước suy kiệt, không thể trông
mong họ tự thoát suy trầm, tự kéo nền kinh tế đi lên.
Trong khi đó, giới đầu tư nước ngoài, không bị lôi cuốn vào
cuộc chạy theo bong bóng giá tài sản, không chịu lãi suất cao, đang tiếp tục là
động lực thúc đẩy tăng trưởng hiện nay. Cứ nhìn vào con số so sánh tăng trưởng
xuất khẩu giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
sẽ thấy rõ điều này. Từ đó mới có kỳ vọng vào khối doanh nghiệp nước ngoài như
nói ở đầu bài.
Kỳ vọng đó hoàn toàn có thể trở thành hiện thực nếu giá tài
sản ở Việt Nam giảm mạnh đến mức nhà đầu tư nước ngoài thấy là hấp dẫn đối với
họ. Ví dụ, rõ ràng không thể trông chờ người nước ngoài ồ ạt vào đây mua nhà,
chuyện đó khó lòng xảy ra; ngay cả với những ai đang thuê nhà, muốn họ bỏ tiền
ra mua nhà thì chi phí bỏ ra nhằm sở hữu nhà phải tương đương mức họ đang bỏ ra
để thuê nhà, bằng không sẽ không có động lực nào để họ mua nhà cả. Nhưng nếu nhà
đầu tư thấy tiềm năng của việc đầu tư vào các dự án bất động sản đang đóng băng
khi giá giảm đến mức họ kinh doanh có lãi thì họ sẽ nhảy vào khi các ràng buộc
được tháo gỡ. Các bản tin gần đây về những dự án chuyển chủ cho nước ngoài cho
thấy điều đó.
Với những ai sử dụng Việt Nam như một công xưởng gia công,
kiểu như nhập nguyên liệu, lắp ráp, xuất đi bán nơi khác thì Việt Nam vẫn còn sức
hấp dẫn nhất định, bất kể giá công nhân tăng mạnh. Với những ai trông mong mua
lại công ty trong nước để tận dụng các mạng lưới có sẵn, cơ hội mua sản nghiệp
tốt với giá rẻ là nhiều.
Như vậy vấn đề còn lại là những băn khoăn liệu mở cửa cho đầu
tư nước ngoài như thế cuối cùng chúng ta được gì, không lẽ ai nấy đều đi làm
thuê ngay chính trên đất nước mình? Có lẽ, như một số nước sau khủng hoảng kinh
tế, chúng ta đành phải chấp nhận một giai đoạn chuyển tiếp khi tài sản sẽ chuyển
cho nước ngoài. Khi nền kinh tế phục hồi, chắc chắn người dân sẽ tìm cơ hội
kinh doanh, lúc đó họ sẽ tìm cách mua lại tài sản. Lúc đó có lẽ không còn ai
dám chạy theo ảo tưởng làm giàu nhờ vào nền kinh tế ảo nữa.
Chỉ có điều trong giai đoạn chuyển tiếp đó, mỗi khi cứ đọc
trên báo các tin như vừa nhập hai chuyến bò Úc về Việt Nam, tổng cộng 10.000
con, có thể thấy ngay đằng sau dòng tin này là hàng ngàn nông dân nuôi bò trong
nước sẽ gặp khó khăn vì giá bán bò không cạnh tranh nổi.
Hay với tin Việt Nam
nhập hơn 385 triệu đô-la rau quả trong năm vừa qua, có thể hình dung hàng chục
ngàn hộ gia đình trồng rau ở các tỉnh sẽ vất vả nhiều hơn trong sản xuất và
kinh doanh. Đi kèm với mở cửa là cái giá phải trả cho những xáo động xã hội, những
khó khăn không lường hết được.
Cho nên nếu Walmart vào đây mở siêu thị thì đó
là xu thế không cưỡng được nhưng cũng phải hiểu xu thế này buộc nhiều cửa hàng
tạp hóa thu gọn kinh doanh để dần biến mất; một cửa hàng McDonald’s mở ra, vài
ba cửa tiệm phở phải giảm khách. Đó là chuyện đương nhiên và người làm chính
sách phải biết để điều chỉnh kịp thời.