Vốn xã hội ở
Việt Nam
(Bài này viết lâu rồi từ năm 2006, đăng trên báo Tia Sáng, giờ
lưu lại ở đây để làm tài liệu. Lý do là có người hỏi Sở Kế hoạch Đầu tư một địa
phương từ chối cấp phép cho một doanh nghiệp mang tên “Social Capital” vì theo
họ cụm từ này dịch ra thành “xã hội tử hình”, vậy có đúng không. Haha. Sở giải
thích tiếu lâm thiệt).
Lý giải hiện tượng hai
cộng đồng dân cư có tài sản như nhau, nguồn lực bằng nhau, ở một mức xuất phát
giống nhau nhưng một bên phát triển mạnh trở nên giàu có, một bên lụi tàn đến
chỗ nghèo đói, người ta bắt đầu viện đến khái niệm vốn xã hội. Nếu có một thứ vốn
như thế, tài sản vốn xã hội ở Việt Nam cao hay thấp, có đóng góp gì cho quá
trình phát triển đất nước?
Nói một cách đơn giản nhất, vốn xã hội là những mạng lưới kết
nối con người lại với nhau, cùng nhau giải quyết các vấn đề chung. Một ngôi
làng bị bão tàn phá – nếu dân làng góp sức cùng nhau xây dựng lại nhà cửa thì kết
quả sẽ cao hơn nhiều lần so với khi từng người đơn độc tự làm lấy.
Vốn xã hội ở đây không phải tự dưng mà có. Nó phải xuất phát
từ một quá trình trải nghiệm chuyện “có đi, có lại”, trải nghiệm mức độ “chơi
được” của người khác và kỳ vọng ở kết quả nhờ thành công ở những lần hợp tác
trước. Cũng như người Việt Nam từng hiểu “Một cây làm chẳng nên non/Ba cây chụm
lại nên hòn núi cao”, vốn xã hội là một thực tế từ xưa nhưng chỉ trở thành đề
tài thời thượng ở phương Tây vào cuối thập niên 1990.
Ở đây, cần lưu ý một số điểm trước khi nhìn lại vốn xã hội ở
Việt Nam. Trước hết, vốn xã hội không chỉ là động lực thúc đẩy tiến bộ của xã hội
bên cạnh vốn tài sản và vốn con người như các ví dụ ở trên. Nó còn có thể có
tác động xấu.
Năm khu phố có năm tay lưu manh thì mọi người dù sao còn chịu
được vì từng tên riêng lẻ không gây hại nhiều lắm, lại dễ bị khống chế. Nhưng nếu
năm tay này liên kết với nhau thành một băng đảng thì hậu họa chúng gây ra tăng
gấp hàng trăm lần cho cả một thành phố. Mafia, xã hội đen tồn tại đến bây giờ
cũng nhờ biết “tận dụng”vốn xã hội của chúng.
Thứ nữa, các mạng lưới hình thành vốn xã hội thay đổi nhanh
chóng. Ngày xưa lối sống khép kín của các cộng đồng dân cư nhỏ, như làng quê Việt
Nam là môi trường xây dựng một loại vốn xã hội khác. Ngày nay, Internet, email,
điện thoại di động lại là công cụ tạo dựng một loại vốn xã hội hoàn toàn khác.
Tuy môi trường tác động lên vốn xã hội nhưng không thể kêu gọi chung chung rồi
hy vọng nhờ vào “nhiệt huyết” mà vốn xã hội bỗng tăng lên theo kỳ vọng. Có thể
nó sẽ tăng trong thời gian ngắn như trên thị trường vốn tài chính nhưng cũng sẽ
nhanh chóng xẹp xuống một khi con người, qua trải nghiệm thực tế, không tìm thấy
điều họ cần tìm.
Vốn xã hội phát huy tác dụng tích cực mạnh nhất ở một xã hội
dân chủ nơi mọi người được tự do và tự nguyện tham gia các mạng lưới gắn kết cộng
đồng và ngược lại nền dân chủ của một xã hội càng được củng cố một khi vốn xã hội
ở đó mạnh lên. Cuối cùng, từ “vốn” có thể gây hiểu nhầm vì qua quan sát, người
ta nhận ra một điều: vốn xã hội càng sử dụng càng tăng chứ không giảm như các
loại vốn khác; thậm chí nếu không sử dụng, vốn xã hội sẽ dần dần triệt tiêu.
Cho dù những nhà nghiên cứu đang bất đồng về định nghĩa vốn
xã hội sao cho trọn vẹn và chính xác, có thể thấy đa số đồng ý ở điểm vốn xã hội
chỉ xuất hiện khi các cá nhân trong cộng đồng cùng chia sẻ một số chuẩn mực và
giá trị làm cơ sở cho sự hợp tác. Vì thế có lẽ một khía cạnh quan trọng trong nền
văn hóa của một xã hội có thể được dùng để đo lường mức vốn xã hội của cộng đồng.
Đó là tính tập thể đối chọi với tính cá nhân.
Chính Robert Putnam, tác giả cuốn Bowling Alone (2000) nổi
tiếng về vốn xã hội than phiền vốn xã hội nước Mỹ đang giảm thấp vì người Mỹ hiện
đại sống mang tính cá nhân hơn trước nhiều.
Thế nhưng, khái niệm tính tập thể thường không được hiểu đầy
đủ. Chúng ta thường gán cho tính tập thể những điều tốt đẹp, là sức mạnh của
“ba cây chụm lại” và chê bai tính cá nhân. Điều đó đúng nhưng chưa đủ. Tính tập
thể đúng là mối quan hệ chặt chẽ ở một xã hội nơi con người gắn kết nhau, sống
dựa vào nhau. Và một khi đã dựa vào nhau như thế, cá nhân trong tập thể thường
phải tôn trọng sự đồng thuận, ít thích va chạm, không muốn đối đầu, không muốn
làm người khác mất mặt – một khái niệm rất quan trọng trong xã hội phương Đông.
Xét ở góc độ này người Việt Nam có tính tập thể cao. Nhưng
điều đó chưa hẳn đưa đến kết luận vốn xã hội ở Việt Nam cao. Nó rất cao trong
khuôn khổ gia đình khi cha mẹ có thể hy sinh tất cả cho việc học của con cái,
trong bình diện cả nước khi có chiến tranh, lúc đó cá nhân sẵn sàng hy sinh
thân mình vì lợi ích chung của cả đất nước. Nó cũng rất cao vì người dân Việt
Nam rất tôn trọng tình làng nghĩa xóm, sẵn sàng chia sẻ cho người gặp bất hạnh.
Nhưng cũng như vốn tài chính, vốn xã hội sinh ra không chỉ để
phục vụ cho nó – nó phải có tác dụng lên sự thịnh vượng của cộng đồng. Và ở
đây, tính tập thể - nhìn ở góc cạnh tránh va chạm, muốn có đồng thuận, có thể
làm thui chột sự đột phá của cá nhân, có thể có tác dụng nhân vốn xã hội lên gấp
bội. Mạng lưới kết nối xã hội suy cho cùng là để nhằm thực hiện một mục tiêu
chung nào đó, nếu tất cả chỉ chú trọng đến xây dựng quan hệ hòa đồng thì có
nguy cơ quên mất mục tiêu ban đầu cho sự ra đời mạng lưới xã hội ấy.
Hơn nữa, vai trò cá nhân rất cần thiết để làm người tiên
phong, vượt ra khỏi tập thể quen thuộc của mình, tiếp thu ý tưởng của tập thể
khác để xây dựng mạng lưới liên kết mới. Các nhà nghiên cứu về vốn xã hội cũng
nêu lên hiện tượng cá nhân lẩn tránh đằng sau một tập thể để giảm bớt sự đóng
góp và tăng mức hưởng lợi từ tập thể. Chỉ có thể tránh hiện tượng này bằng một
tập thể với những quy ước rõ ràng, minh bạch, tính chịu trách nhiệm cao của từng
cá nhân. Một ông thứ trưởng quản lý như thế nào để các bộ phận bên dưới nhũng lạm
với quy mô chưa từng thấy lại có thể dùng màn che tập thể để lẩn tránh trách
nhiệm – ấy chính là chỗ yếu của tính tập thể trong tính toán vốn xã hội của
chúng ta.
Ở bình diện lớn hơn, tính tập thể của xã hội có nguy cơ ngăn
cản xã hội đó vươn ra bên ngoài vì chắc chắn họ sẽ gặp phải những giá trị khác,
những chuẩn mực khác khó lòng chấp nhận đối với họ. Lúc đó, vốn xã hội hạn hẹp
này sẽ đẩy xã hội đó đến chỗ bế tắc và trở nên trì trệ.
Mặt tốt và mặt xấu của tính tập thể hay, nói cách khác, tính
tích cực và tính tiêu cực của vốn xã hội thể hiện rõ nhất trong thế giới làm
ăn. Nếu sử dụng mối quan hệ giữa quyền lực và tiền bạc thành một liên kết
riêng, mang tính loại trừ người khác để hưởng lợi cho riêng mình, thì đấy là một
loại vốn xã hội nguy hại cho xã hội nói chung. Nó cũng giống mối quan hệ bên
trong các băng đảng hay các nhóm khủng bố cuồng tín. Còn xây dựng một mối quan
hệ mở, hướng ra bên ngoài, trên cơ sở mọi người tham gia cùng chia sẻ, cùng hưởng
lợi, là cầu nối cho mọi cá nhân lúc đó tính tập thể mới biến vốn xã hội thành
nguồn lực lớn cho phát triển.