Kinh tế Việt Nam đi về đâu?
Nhìn sao cũng
đúng
Nhiều người ắt hẳn rất ngạc
nhiên khi thấy các chuyên gia kinh tế của các tổ chức kinh tế, tài chính thế
giới, kể cả các ngân hàng khi phân tích tình hình kinh tế Việt Nam đều tỏ ra lạc
quan theo kiểu mọi chuyện đang tiến triển tốt đẹp, không có gì phải lo lắng.
Ngạc nhiên là bởi cùng lúc đó phản ánh từ giới kinh doanh trong nước là một bức
tranh u ám, một tình hình bi đát của hoạt động sản xuất, kinh doanh, từ doanh
nghiệp lớn cho đến doanh nghiệp gia đình.
Thật ra hai nhận định này không
mâu thuẫn nhau là mấy, cái khác biệt là góc nhìn, là cách lượng giá các con số và
các xu hướng.
Ví dụ lạm phát, từ chỗ lên đến
18,6% năm 2011, năm nay lạm phát đã được kéo về dưới một con số (dự báo cả năm
chừng 9,2%), ắt hẳn các chuyên gia kinh tế sẽ đánh giá đây là một thành tựu
đáng kể. Và những biện pháp được áp dụng để kiềm chế lạm phát sẽ được coi là đúng
đắn như nâng lãi suất lên cao, thắt chặt tín dụng. Cũng những cụm từ đó nhưng
nhìn từ góc độ doanh nghiệp lại là những hòn đá tảng, đè nặng lên vai họ: lãi
suất cao, tức chi phí tài chính cao làm họ kiệt quệ, thắt chặt tín dụng đồng
nghĩa ít có cơ hội cho họ vay vốn làm ăn dễ dàng như những năm trước.
Ở đây, phải thừa nhận công luận
đôi lúc đảo chiều một cách thiếu nhất quán. Những năm trước, khi tốc độ tăng
trưởng tín dụng quá cao, có năm như năm 2007 tăng đến 51%, kéo theo lạm phát
phi mã, dư luận ai nấy đều đòi hỏi phải siết lại việc cho vay dễ dãi của hệ
thống ngân hàng. Nay tăng trưởng tín dụng thấp, chính là hệ quả của việc các ngân
hàng thận trọng trở lại, từng bước giải quyết nợ xấu, các doanh nghiệp từng
bước giải quyết việc sử dụng đòn bẩy tài chính quá đáng, lại bị mọi người chỉ
trích như một chỉ tiêu không đạt yêu cầu. Có lẽ việc công luận đảo chiều trong
trường hợp này là do mức thay đổi quá lớn, tín dụng tính cho đến cuối tháng 11
chỉ tăng 4,15%.
Hay chuyện tính toán cán cân
thương mại, lần đầu tiên trong nhiều năm Việt Nam
xuất siêu thay vì nhập siêu (mới năm ngoái đây thôi, Việt Nam nhập siêu đến gần 10 tỷ đô-la),
không thể không xem đây là một thành tích đáng kể. Báo cáo của các tổ chức tài
chính nước ngoài đều tô đậm yếu tố này bởi nó góp phần quyết định trong việc ổn
định tỷ giá. Nhưng đó là góc nhìn vĩ mô; nhìn từ doanh nghiệp thì thấy tăng
trưởng xuất khẩu chủ yếu là do doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, doanh
nghiệp trong nước hầu như không tăng xuất khẩu. Còn nhập khẩu không tăng mạnh
như mọi năm đồng nghĩa doanh nghiệp bế tắc, không thể nhập nguyên vật liệu về
để sản xuất hoặc không bán được hàng nên không dám nhập hàng nhiều như các năm
trước.
Một yếu tố khác cũng nhận được
sự đánh giá khác nhau giữa hai góc nhìn vĩ mô và vi mô là chuyện nợ xấu. Bà Victoria
Kwakwa, Giám đốc Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam
thì lạc quan tin rằng Việt Nam
sẽ xử lý được vấn đề nợ xấu. Đó là bởi tỷ lệ nợ xấu của Việt Nam, dù còn bất
nhất nhưng cứ lấy theo tỷ lệ cao nhất là 10% trên tổng dư nợ tín dụng mà có lần
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước buộc miệng công bố trên diễn đàn Quốc hội thì vẫn
còn rất thấp so với tỷ lệ này ở các nước lúc xảy ra khủng hoảng nợ xấu. Theo
một nghiên cứu của McKinsey, sau cơn khủng hoảng tài chính năm 1997, nợ xấu của
các nước châu Á tăng vọt, lên khoảng 30% GDP, ví dụ nợ xấu tính đến cuối năm
2001 của Trung Quốc là 44-55% GDP, của Malaysia là 36-48% GDP hay của Thái Lan
là 36-41% GDP. So sánh như thế thì nợ xấu Việt Nam dù có lên đến 15% GDP vẫn có
thể giải quyết được.
Thế nhưng nhận định này không
tính đến hai chuyện. Thứ nhất, ngay sau khủng hoảng tài chính 1997, các nước
nhảy vào quyết liệt giải quyết nợ xấu còn ở Việt Nam, bàn thì nhiều, phát biểu
thì hăng say trong khi bắt tay vào giải quyết nợ xấu, cho đến giờ đề án tổ chức
công ty mua bán nợ xấu vẫn chưa có! Thứ hai, vì chưa có hướng giải quyết triệt
để, nợ xấu làm giới ngân hàng không muốn cho vay ra nữa, tiền chỉ đổ vào trái
phiếu chính phủ và có lẽ sắp tới là trái phiếu chính quyền địa phương.
Như thế nhìn từ góc độ vĩ mô,
tình hình kinh tế Việt Nam, theo các tổ chức tài chính quốc tế, dường như đang
đi vào thế dần ổn định, thời điểm khó khăn nhất đã qua và các nguy cơ nổ ra
khủng hoảng cán cân thanh toán hay khủng hoảng tài chính đã được giải quyết.
Tuy thế, nhìn từ góc độ doanh
nghiệp các rủi ro khác vẫn có khả năng xảy ra. Đó là sự vỡ nợ dây chuyền từ doanh
nghiệp này lây lan sang doanh nghiệp khác rồi từ doanh nghiệp đến ngân hàng hay
từ doanh nghiệp đến người lao động. Ví dụ người ta chỉ chú ý đến hai bên trong
tranh chấp bảo lãnh phát hành trái phiếu giữa Công ty Tài chính Cổ phần
Vinaconex - Viettel và ngân hàng SeABank mà quên đi nhân vật chính, Công ty
Vina Megastar, nơi phát hành trái phiếu và nay không trả được nợ. Dự báo sẽ còn
nhiều vụ như thế, nhất là các khoản nợ có liên quan đến các doanh nghiệp nhà
nước.
Đây là cái giá phải trả trong
quá trình trở lại những giá trị kinh doanh căn bản chứ không chạy theo các loại
bong bóng tài sản như trước. Tái cơ cấu một doanh nghiệp là đã tốn kém, huống
gì phải tái cơ cấu cả nền kinh tế. Điều đáng băn khoăn là chi phí của quá trình
này, nhất là khi liên quan đến khối doanh nghiệp nhà nước hay hệ thống ngân
hàng thương mại cổ phần, lại đang được chia đều ra cho người dân ai cũng phải
gánh. Dọn dẹp hậu quả của lòng tham thì lẽ ra thủ phạm chạy theo lòng tham phải
gánh chịu trước tiên chứ không phải là người dân bình thường.