Thiếu người san định
Saigon Tiếp thị số ra ngày 23-4 có bài “Sáng sủa hơn, nhưng lo khoản thâm hụt”, trong đó có câu phát biểu của một chuyên gia kinh tế: “Cán cân thương mại và cán cân vãng lai của Việt
Trước hết, có lẽ phải tóm tắt chuyện lý thuyết. Mọi giao dịch tiền vào, tiền ra giữa trong nước và nước ngoài đều được ghi nhận vào các tài khoản, có món ghi bên nợ, có món ghi bên có, cân đối các tài khoản này lại, chúng ta có “cán cân thanh toán”. Cán cân thanh toán chủ yếu có hai tài khoản gồm “tài khoản vãng lai” và “tài khoản vốn”. Tài khoản vãng lai lại bao gồm chủ yếu là “cán cân thương mại” (số dương là xuất siêu, âm là nhập siêu) và một số khoản khác như lợi nhuận mà nhà đầu tư nước ngoài chuyển về nước hay kiều hối gởi về trong nước. Tài khoản vốn thì gồm dòng vốn giải ngân từ đầu tư trực tiếp và gián tiếp từ nước ngoài, tiền đi vay nước ngoài…
Đơn giản như thế nhưng nhiều người vẫn dùng sai. Ví dụ, cán cân thanh toán luôn luôn phải bằng 0 nhưng nhiều lúc do nói ngắn gọn, người ta vẫn viết “thâm hụt” hay “thặng dư” cán cân thanh toán trong khi lẽ ra phải nói thâm hụt hay thặng dư các thành phần của cán cân thanh toán. Những khoản thâm hụt hay thặng dư mà hai tài khoản nói trên chưa cân đối được sẽ được tính làm giảm hay tăng dự trữ ngoại tệ. Từ đó mới thấy chữ “cán cân” là chưa ổn do dịch từ tiếng Anh (balance) vừa có nghĩa là cái cân, vừa có nghĩa cân đối. Nên thống nhất dùng thuật ngữ “bảng cân đối thanh toán” là dễ hiểu và chính xác hơn cả.
Nhìn lại câu trích ở đầu bài, chúng ta thấy lẽ ra phải viết là “cân đối tài khoản vãng lai” thay cho “cán cân vãng lai” mới chính xác và phải làm rõ rằng cán cân thương mại đang được đề cập là một phần của tài khoản vãng lai, chứ không phải là hai thành phần tách biệt. Đồng ý là thâm hụt tài khoản vãng lai có thể là 7 tỷ USD và thâm hụt thương mại lại cao hơn, đến 10,4 tỷ USD nhưng đó là vì những khoản dương khác trong tài khoản này như kiều hối gởi về nước đã làm giảm bớt con số thâm hụt.
Những từ như “vãng lai” cũng gây khó khăn cho người dùng vì từ tiếng Anh tương đương (current) lại dễ hiểu hơn cho chính người nói tiếng Anh. Tại sao chúng ta không dùng từ “hiện hành” thành thuật ngữ “tài khoản hiện hành” cho thống nhất và dễ hiểu hơn.
Một chuyện cũng khá thú vị khác là dự trữ ngoại tệ. Như chúng ta đã thấy, những thiếu hụt hay dư thừa của các tài khoản trong bảng cân đối thanh toán được phản ánh thành tăng hay giảm dự trữ ngoại tệ của quốc gia. Nhưng chủ sở hữu các khoản như xuất khẩu, kiều hối, đầu tư nước ngoài đâu phải là nhà nước. Cho nên cần làm rõ một điều thường hay bị hiểu sai rằng khi cần (ví dụ như cần tiền để kích cầu) thì cứ lấy dự trữ ngoại tệ ra xài! Dự trữ ngoại tệ là do ngân hàng trung ương nắm giữ nhưng nó lại được cân đối ở các khoản nợ mà ngân hàng trung ương tiếp nhận để chuyển thành dự trữ ngoại tệ. Hay nói cách khác, dự trữ ngoại tệ chẳng liên quan gì đến tiền của chính phủ cả.
Nhìn chung, chúng ta may mắn có các bậc học giả ngày xưa đã từng bỏ công san định rất nhiều thuật ngữ khoa học, kỹ thuật mà chúng ta vẫn sử dụng thống nhất cho đến ngày nay. Riêng ngành kinh tế học mới phổ biến trong thời gian gần đây, chưa có những nhà nghiên cứu có thẩm quyền và uy tín để làm công việc san định này. Có lẽ đây là đề tài mà Viện Kinh tế trung ương nên đứng ra đảm trách.
No comments:
Post a Comment