NVP
Friday, August 1, 2025
Friday, July 5, 2024
AI - hype and reality
AI – cường điệu và thực tế
Nguyễn Vạn Phú
Bạn đôi lúc có cảm giác hơi hơi mặc cảm vì chung quanh đọc
đâu cũng thấy bàn về AI (trí tuệ nhân tạo), về các chatbot thông minh trong khi
mình chưa bao giờ dùng nó vào công việc, ngay cả đối đáp thì chỉ thử vài ba lần
rồi thôi. Xin đừng quá tự ti, một nghiên cứu của Reuters Institute và đại học
Oxford, khảo sát hơn 12.000 người ở 6 nước cho thấy một điều tương tự - chỉ có
7% ở Mỹ và 2% ở Anh, Pháp, 1% ở Nhật nói họ sử dụng các công cụ AI tạo sinh
hàng ngày; đa số chỉ xài một hai lần cho biết. Nghiên cứu cũng cho thấy một tỷ
lệ lớn người được khảo sát (47% ở Mỹ và 42% ở Anh) chưa hề nghe nói đến
ChatGPT; tỷ lệ này còn cao hơn ở các AI tạo sinh khác như Gemini của Google, hay
Copilot của Microsoft.
AI cho từng
người
Vì sao thế giới hay ít ra trên mặt báo cứ xôn xao chuyện AI
mà thực tế ít người dùng như thế? Đó là bởi đứng trước màn hình ChatGPT thiệt
tình không biết hỏi gì luôn. Có lẽ ai cũng thử hỏi các câu mang tính kiểm tra
kiến thức xem nó có thông minh thật không. Cách chúng trả lời gây ấn tượng cho
nhiều người nhưng cũng có thể gây thất vọng ở nhiều người khác bởi trước sau gì
cũng bắt gặp nó trả lời sai, nhiều
cái sai rất vớ vẩn. Từ đó ấn tượng của người dùng là ChatGPT quá giỏi, quá tài
nhưng không tin được, dùng để giải trí thì được còn dùng nó để giải quyết các vấn
đề vướng mắc thật sự thì chưa.
Điều này cũng giải thích các bài viết cứ chỏi nhau về AI: một
bên nói nó sẽ lấy đi nhiều công ăn việc làm, sẽ đẩy hàng triệu người vào chỗ thất
nghiệp; một bên nói còn lâu, tất cả chỉ là sự cường điệu hóa của một số doanh
nghiệp đánh cược vào AI. Ở đây có lẽ nên phân biệt hai loại góc nhìn, phân
tích, đánh giá, đo lường tiềm năng của các công cụ AI nhìn từ góc độ cá nhân và
từ góc độ chung cho cả nền kinh tế.
Ở góc độ cá nhân, nếu vượt qua được giai đoạn xài thử cho biết,
không còn dè chừng ChatGPT như một trợ lý thông minh nhưng không đáng tin, chúng
ta có thể biến nó thành công cụ hỗ trợ công việc rất có ích. Lấy ví dụ công việc
bếp núc của tòa soạn một tờ báo, là chuyện chuyên môn của người viết bài này, giả
thử một phóng viên ngày mai có cái hẹn phỏng vấn một nhân vật quan trọng, bình
thường phóng viên sẽ gặp trưởng ban hay thư ký tòa soạn để được hướng dẫn nên hỏi
gì, hướng câu chuyện phỏng vấn vào những đề tài nào… Nay với ChatGPT người
phóng viên có thể hỏi ngay công cụ AI này, miễn sao cứ cung cấp càng nhiều chi
tiết càng tốt như chức vụ người được phỏng vấn, lãnh vực chuyên môn, đề tài
đang quan tâm, thông tin nền… Bảo đảm câu trả lời chi tiết của ChatGPT cùng với
hàng loạt câu hỏi phỏng vấn nó gợi ý sẽ gây ngạc nhiên cho nhiều người.
Các cuộc họp giao ban tin vào mỗi buổi sáng thường là cơn ác
mộng với nhiều phóng viên vì không tìm ra đầu tin để báo. ChatGPT có thể gợi ý
đề tài, hay cứ cung cấp cho nó các mảng thời sự chính rồi nhờ nó chỉ ra các đề
tài để viết tiếp (follow-up). Trong các buổi động não chung ở tòa soạn, nó sẽ
là trợ lý đắc lực đưa ra các ý tưởng mới cho mọi người thảo luận. ChatGPT và
các công cụ AI tạo sinh tương tự nay đã có thể phân tích sâu một báo cáo tài
chính, tóm tắt một tài liệu dài, nêu những điểm chính của một văn bản vừa ban
hành. Chúng có thể giúp phóng viên tạo ra các biểu bảng, đồ họa, thậm chí cả
hình minh họa nữa.
Đây chỉ là một minh họa cho việc sử dụng AI tạo sinh như các
công cụ hỗ trợ hữu ích trong nghề báo; mọi nghề khác đều có thể tìm thấy các ứng
dụng tương tự, từ dịch thuật đến tóm tắt văn bản, từ viết kế hoạch marketing đến
viết đơn xin việc. Chúng không thể thay thế hoàn toàn con người nhưng sẽ là
cánh tay nối dài đắc lực cho những ai biết cách sử dụng chúng. Chí ít chúng
cũng giúp chúng ta giải thích các khái niệm mới lạ, một câu tiếng nước ngoài chưa
biết, một tít báo khó hiểu – tất cả có sẵn trong lòng bàn tay.
AI cho cả nền
kinh tế
Ở góc nhìn toàn bộ nền kinh tế, tác động của AI, cho dù được
khuếch trương bằng cả ngàn bài viết, là chưa đến đâu cả. Cái làm nên sôi động của
lãnh vực AI chính là giá cổ phiếu của các công ty liên quan đang tăng mạnh, như
hãng Nvidia, chuyên sản xuất chip dùng trong AI, giá cổ phiếu liên tục tăng
không ngừng nghỉ, giúp giá trị vốn hóa công ty này đến tháng 6-2024 vượt qua
Microsoft, Apple, trở thành công ty lớn nhất thế giới ở mức giá trên 3.300 tỷ
đô-la.
Ngược lại, sau cơn sốt đầu tư vào AI như một xu hướng thời
thượng, các công ty mới vỡ lẽ, cuộc chơi AI rất tốn kém nhưng hiệu quả chưa thấy
đâu cả. Theo Bloomberg, tỷ lệ các công ty có kế hoạch tăng mức đầu tư vào AI
trong 12 tháng tới đã giảm từ mốc rất cao 93% cách đây một năm nay chỉ còn 63%.
Trong khi đó, theo Cục Thống kê Mỹ, chỉ có 5% công ty Mỹ có sử dụng AI. Trong
bình diện từng công ty, có thể từng cá nhân các nhân viên mày mò tìm cách sử dụng
AI để nâng hiệu suất công việc nhưng cả công ty ứng dụng AI để cải tiến sản phẩm
hay dịch vụ thì chưa thông suốt.
Philipp Carlsson-Szlezak, nhà kinh tế trưởng của Boston
Consulting Group nhận định: “Với tôi, đây là câu chuyện năm năm nữa, chứ không
phải năm quý”. Ý ông muốn nói phải chừng năm năm nữa mới chứng kiến được sự thay
đổi trong hoạt động của doanh nghiệp dưới tác động của AI. Trở lại câu chuyện một
tòa soạn để minh họa ứng dụng AI, từng phóng viên, từng thư ký tòa soạn có thể sử
dụng AI để hỗ trợ cho công việc. Còn nói tờ báo dùng AI để thay phóng viên viết
tin bài thì còn lâu.
Nhà kinh tế MIT nổi tiếng Daron Acemoglu viết trên tờ Project Syndicate bài “Đừng tin vào sự
cường điệu AI” với câu mở đầu: “Nếu bạn lắng nghe các lãnh đạo công nghệ, các
nhà dự báo kinh doanh và hầu hết báo chí, bạn có thể sẽ tin rằng các bước tiến
gần đây của AI tạo sinh sẽ sớm đem lại các lợi ích năng suất to lớn, cách mạng
hóa cuộc sống của chúng ta bây giờ. Tuy nhiên lý thuyết kinh tế cũng như dữ liệu
không ủng hộ lời dự báo hồ hởi này”.
Bàn về tác động lâu dài của AI, có lẽ bài viết của Ray
Kurzweil trên tờ Economist tóm gọn
súc tích nhất. Ông cho rằng AI sẽ đem lại những lợi ích to lớn trong ba lãnh vực:
năng lượng, sản xuất và y tế. Về năng lượng, nếu con người chỉ cần khai thác
0,01% năng lượng mặt trời hàng ngày rót xuống mặt đất thì cũng đủ cho thế giới dư
xài, không cần phụ thuộc vào xăng dầu, than đá gây ô nhiễm nữa. Thế nhưng cuộc
cách mạng năng lượng mặt trời chưa diễn ra mạnh mẽ là do vật liệu chế tạo pin để
trữ điện vào ban ngày khi dư thừa đem sang sử dụng vào ban đêm còn quá đắt. Sử
dụng AI để sàng lọc hàng ngàn nguyên liệu có thể dùng để làm pin chọn ra hợp chất
tối ưu là thế mạnh của AI – khi đó nguồn năng lượng sạch, dồi dào và rẻ tiền sẽ
biến đổi hoàn toàn thế giới.
Năng lượng dồi dào sẽ dẫn tới sản xuất giá rẻ, kể cả robot thông
minh thay dần con người trong các công việc nặng nhọc, nguy hiểm. Ở lãnh vực thứ
ba, AI sẽ thúc đẩy những bước tiến đột phá trong công nghệ sinh học, giúp thử
nghiệm nhanh nhiều loại thuốc, giả lập hàng triệu tình huống khác nhau trong
các phòng thí nghiệm ảo, từ đó tìm ra các loại thuốc mới cho loài người.
Cho dù những dự báo của Kurzweil mang tính khả thi cao, chúng
cũng đòi hỏi thời gian, tính bằng cả thập niên nữa. Vì thế có thể tạm thời kết
luận, AI rất có ích nhưng hãy bắt tay vào sử dụng chúng đi cho nhu cầu từng cá
nhân, từng tổ chức, từng công ty. Đừng ca tụng tiềm năng của chúng nữa vì sự cường
điệu thường đem đến thất vọng trong khi AI cũng như nhiều đột phá công nghệ, cần
sự kiên nhẫn và dụng công để khai thác.
Box
Nhờ AI viết
tít báo
Đặt tít thường là công việc của người biên tập chứ không phải
của phóng viên. Đặt tít là một nghệ thuật, sao cho vừa ngắn gọn vừa thu hút sự
chú ý của người đọc, nếu có các yếu tố hài hước, chơi chữ và trong thời đại
Internet, đáp ứng yêu cầu SEO nữa thì quá tốt.
Người viết thử tải toàn bộ bài này lên một số AI tạo sinh phổ
biến rồi nhờ chúng đặt dùm cái tít, lưu ý văn phong dí dỏm nhưng ngắn gọn. ChatGPT
cho vài tít có vẻ như muốn tạo sự hấp dẫn: AI: Siêu trí tuệ hay trợ lý mau
quên?; AI: Đột phá công nghệ hay chỉ là “thánh phán”?
Gemini của Google đề nghị đến 10 tít, kể cả một vài tít khá
bí ẩn, không biết sao nó đưa ra: AI: "Lên Giàn Giả" Hay "Xuống
Giếng Thật"?; AI: "Giải Mã Bí Ẩn" Hay "Tạo Ra Mê
Cung"?; AI: "Chìa Khóa Tương Lai" Hay "Hố Đen Vô Tận"?
Nhìn chung là chưa ổn – thôi cứ để công việc này cho biên tập
viên như họ đang làm, chưa AI nào thay được.
“AI Washing” là gì?
Từ tháng 3-2024 đến nay có ít nhất 3 công ty niêm yết tại Mỹ
bị Ủy ban Chứng khoán Mỹ (SEC) cáo buộc đã sử dụng chiêu thức “AI Washing”. Đây
là tội gì? Nó có phổ biến không?
Nói cho đơn giản, giả dụ bạn đang viết một kế hoạch kinh
doanh trên máy tính xách tay. Thỉnh thoảng phải dùng Google để tìm kiếm tài liệu
nên có thể khoe đã sử dụng thuật toán tìm kiếm tân kỳ; viết xong dùng chức năng
kiểm tra chính tả tuyệt vời của Microsoft; đôi lúc gặp cụm từ khó chưa hiểu
nghĩa bèn dùng ChatGPT đa năng để hỏi han. Vậy cuối cùng bạn có thể kết luận kế
hoạch kinh doanh của bạn được biên soạn có sử dụng trí tuệ nhân tạo (AI) trong
mọi bước đi, tích hợp các mô hình học máy, kết hợp với AI tạo sinh được chăng?
Nếu bạn khoe như vậy, đó chính là một dạng “AI Washing” mà SEC đang cảnh báo –
nói nôm na theo tiếng Việt là “Nổ AI”.
Cá nhân “nổ AI” không ai nói làm gì nhưng công ty mắc lỗi
“AI Washing” sẽ gây hiểu nhầm cho giới đầu tư, làm họ bỏ tiền ra mua cổ phiếu
vì cứ tưởng công ty đang đầu tư mạnh vào một lãnh vực đang nóng là AI. Chủ tịch
SEC, Gary Gensler đã nhiều lần cảnh báo các công ty không được “nổ” quá thực tế
ứng dụng AI vì như thế họ đang vi phạm luật chứng khoán. Giải thích một cách
chính thức thì “AI Washing” được xem là một chiêu thức marketing một số công ty
sử dụng để phóng đại tầm mức ứng dụng công nghệ AI trong các sản phẩm của họ. Mục
tiêu là nhằm biến sản phẩm của công ty có vẻ hiện đại hơn thực tế, tận dụng mối
quan tâm và sự thổi phồng quanh AI. Sở dĩ gọi là “AI Washing” bởi trước đó đã
có khái niệm “Greenwashing”, để chỉ các chiêu thức một số công ty sử dụng nhằm
tạo cảm giác họ đã nổ lực có những bước tiến mạnh theo hướng sản xuất xanh, sạch,
bảo vệ môi trường trong khi thực tế không phải như vậy.
Mới đây nhất, vào giữa tháng 6-2024, SEC kiện nhà sáng lập,
cựu tổng giám đốc điều hành Joonko, một nền tảng tuyển dụng trực tuyến, từng
tuyên bố họ sử dụng AI để kết nối các công ty cần tuyển dụng với các ứng viên
xuất thân từ các nhóm người ít được chú ý. Trong số các cáo buộc, SEC cho rằng
Joonko hoàn toàn không sử dụng gì dính líu đến AI như họ khoe. Ngoài ra người
sáng lập còn bị các cáo buộc khác như giả mạo hợp đồng, chỉnh sửa các bản sao
kê ngân hàng, báo cáo thổi phồng số lượng khách hàng của công ty.
Vào tháng 3-2024, hai công ty Delphia và Global Predictions đồng
ý nộp tổng cộng 400.000 đô-la để giải quyết đơn kiện của SEC cho rằng cả hai
đưa ra những tuyên bố sai và gây hiểu nhầm về việc sử dụng AI. Delphia từng khoe
biết cách làm cho trí tuệ nhân tạo của họ thông minh hơn nên có thể dự báo công
ty nào hay xu hướng nào sẽ nổi trội để mọi người có thể đầu tư vào chúng sớm
hơn những người khác. Global Predictions thì tuyên bố họ là nhà tư vấn tài
chính AI đầu tiên được quản lý và nền tảng của họ cung cấp các dự báo do chuyên
gia AI dẫn dắt. Dù vậy cả hai đều không thừa nhận hay bác bỏ cáo buộc của SEC.
Nhiều luật sư cho rằng nỗ lực của SEC trong thời gian qua tương
tự những gì họ từng làm vào thời kỳ đầu nóng sốt các loại tiền mã hóa. Hilary
Allen, một giáo sư luật của trường American University cho rằng lúc nào cũng có
những người cố tình lợi dụng công nghệ để hưởng lợi. Giai đoạn này dễ phát hiện
vì chưa tinh vi, chỉ e rằng sau này có những nỗ lực kín đáo khoe ứng dụng AI
khó lật tẩy hơn.
Một cách để phát hiện xem công ty có “nổ AI” không là đặt
câu hỏi: liệu phần mềm sử dụng trong sản phẩm có những thuật toán có khả năng tự
học để đưa ra các quyết định mới chứ không phải do lập trình để thực hiện. Cũng
cần lưu ý với người tiêu dùng bình thường ngày nay khi nghe nói đến AI họ liền
liên tưởng đến các AI tạo sinh như ChatGPT hay Gemini trong khi thật ra AI có
thể nói đến một phổ rộng rãi hơn nhiều các công nghệ sử dụng học máy để huấn
luyện dựa trên dữ liệu chứ không phải được lập trình từ trước.
Rất nhiều sản phẩm tiêu dùng ngày nay, từ tủ lạnh, máy giặt
đến máy hút bụi thực chất chỉ là có kết nối Internet để điều khiển thông qua
các ứng dụng trên điện thoại di động nhưng cũng được quảng bá là sản phẩm AI.
Phép thử kiểm tra là xem kỹ chúng có tự thực hiện được thao tác nào không do
chúng tự quyết định thực hiện dựa trên các dữ liệu đầu vào do chúng thu thập.
Hay tất cả là do chúng ta cài đặt một loạt các điều kiện trên ứng dụng rồi để
chúng lần lược tiến hành các thao tác đã được lập trình.
Trong bối cảnh ngay cả các “ông lớn” công nghệ như Google,
OpenAI hay Microsoft đều đang đau đầu với hiện tượng các chatbot của họ dễ bịa
chuyện, gọi là bị ảo giác (hallucination) thì các lời khẳng định của một công
ty nào đó cam đoan trợ lý ảo sử dụng AI tạo sinh của họ hoàn toàn chính xác
100%, không hề nói sai lần nào chắc chắn là một dạng “nổ AI”. Khi bên dưới các sản
phẩm ChatGPT, Gemini hay Copilot đều thận trọng nhắc người dùng, không nên tin hẳn
vào kết quả vì chúng có thể nói sai, một lời cam đoan ẩu như thế sẽ gây tác hại
to lớn đến người dùng cả tin, xứng đáng bị gán danh “AI Washing”.
Friday, December 31, 2021
Cryptocurrency
Phép thử tiền crypto
Không biết hãng Finder khảo sát ở đâu, với ai mà kết luận đến
41% dân Việt Nam có sở hữu tiền mã hóa (cryptocurrency hay crypto), đứng nhất
thế giới luôn. Nghe còn ấn tượng hơn là 28% trong số này có đầu tư vào bitcoin!
Hãng nghiên cứu Chainalysis cũng có kết luận tương tự.
Cũng như thông tin hình chụp bức tranh này, hình số hóa chiếc
giày kia được bán đấu giá mấy triệu đô-la, các mẩu tin về thế giới tiền ảo gây
hoài nghi, tò mò và thắc mắc liệu thế giới chúng ta đang sống có đang rơi vào
chỗ điên loạn khi người ta tranh nhau mua những đồng tiền được đặt tên theo những
con chó một cách đùa giỡn! Nhưng cũng có nhiều người tin vào cái tương lai của
thế giới ảo đó – hăm hở tìm hiểu để tránh lỡ chuyến tàu làm giàu của thế kỷ. Giải
thích như thế nào đây, cái hiện tượng kỳ lạ này?
* * *
Không đợi đến khi Yuval Harari viết cuốn Sapiens, người ta mới
biết các khái niệm như thượng đế, đất nước, tiền, doanh nghiệp… là không có thật,
là các thực thể chỉ tồn tại trong trí tưởng tượng của con người. Người ta đẻ những
khái niệm đó ra để làm nền tảng gắng kết con người lại với nhau, nâng con người
từ mức độ một động vật như bao động vật khác lên thành một loài độc đáo, biết
kiềm chế để hợp tác làm nên những điều kỳ vĩ.
Thế tại sao không suy nghĩ những khái niệm mới nảy nòi sau
này như cái Metaverse của Mark Zuckerberg hay hàng loạt khái niệm kỳ lạ như NFT
(non-tangible tokens – bản sao kỹ thuật số duy nhất của một tác phẩm), Bitcoin
và hàng loạt đồng tiền mã hóa khác… cũng là những thực thể không có thật sẽ tồn
tại trong trí tưởng tượng của những thế hệ sau này. Nếu thế hệ trước tin vào cái cấu
trúc tập trung của xã hội, có thứ bậc, trên dưới thì thế hệ sau đòi mọi thứ phải
phi tập trung, ngang hàng. Và thời điểm hỗn loạn của thế giới ảo hiện
nay là lúc các khái niệm phi tập trung đó được rao giảng, được nhào nặn, lý
thuyết hóa để sẽ có những nhóm người tin chúng như các thế hệ trước tin vào tờ
giấy của các chính phủ phát hành và bảo đó là tiền. Chúng ta từng tin vào hàng
loạt khái niệm không có thật thì đã sao.
Trong một thời gian dài, người nào ra kinh doanh là đem toàn
bộ tài sản kể cả nhà cửa, vườn tược ra đặt cược cho các thương vụ bán buôn.
Thua lỗ, nợ nần là rất dễ bị xiết hết gia sản. Rồi có lẽ một nhóm “doanh nhân”
nào đó ngồi lại, nghĩ ra khái niệm “trách nhiệm hữu hạn” để chỉ ràng buộc trách
nhiệm của người sản xuất, kinh doanh vào một số vốn nhất định mà họ đưa vào
thương trường mà thôi. Trước đó công ty trách nhiệm hữu hạn không hề tồn tại; sau
khi luật lệ ra đời, nó cũng không hề tồn tại trên cuộc đời này nhưng lại rất thực
trong tâm trí những người liên quan, cùng chia sẻ niềm tin được thiết lập bằng
luật lệ. Ngày nay không ai nói khái niệm một công ty chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn
là điên rồ cả.
Ngược lại, bây giờ mà nói “quân xử thần tử, thần bất tử bất
trung”, ắt hẳn mọi người sẽ nói đồ khùng; hay giới trẻ sẽ cười khi nghe khuyên
“gái thời tiết hạnh làm câu trau mình”. Với thế hệ sau, quan hệ giữa vị tổng thống
một nước với người dân nước đó hay quan niệm trinh tiết đã thay đổi tận gốc rễ.
Điều muốn nói là ở thời nào người ta cũng cùng nhau tin vào một số khái niệm thì
những khái niệm đó sẽ trở thành chân lý đúng đắn, không có gì bàn cãi.
Nay một đồng tiền mà mỗi lần đem ra tiêu xài phải tìm đỏ mắt
mới có nơi chấp nhận, mỗi giao dịch phải chờ vài phút đến vài chục phút và tiêu
tốn cả ngàn ký điện… có người cho là điên nhưng cũng có người hoan hô. Đó là
bitcoin. Một hình chụp bìa báo Economist thành một tác phẩm mang tên NFT được
tranh mua với giá gần nửa triệu đô-la, chúng ta cho là khùng nhưng vẫn có người
mua đấy thôi.
Thôi thì những người lớn tuổi đã quen với các khái niệm cũ
được dày công vun đắp biết bao thế hệ hãy cứ hoài nghi và tránh xa các món vật
phẩm mới trong cái “đa thế giới” mà các thế hệ sau đang tìm cách xây dựng rồi
vun đắp theo kiểu của họ. Thế hệ trẻ cứ hăm hở với các khái niệm xa lạ như tài
chính phi tập trung (DeFi), chuỗi khối (blockchain), tiền mã hóa, hợp đồng
thông minh, tổ chức tự chủ phi tập trung (DAO)… và cứ trò chuyện với nhau để dần
biến những khái niệm này thành “chân lý” như kiểu “công ty trách nhiệm hữu hạn”
ngày xưa.
* * *
Chỉ có một điều: cho dù 41% dân Việt Nam có sở hữu tiền mã
hóa thật đi chăng nữa, 59% còn lại không mà tiền mã hóa ắt không muốn nửa thế
giới kia giả dụ có sụp đổ sẽ ảnh hưởng đến cuộc sống của họ. Tức nền kinh tế tiền
mã hóa dù có tiềm năng hay tăng trưởng mạnh mẽ đến đâu cũng nên được gói gọn lại
chứ đừng để tác động lên nền kinh tế thật với các sản phẩm thật.
Muốn vậy, cách tốt nhất là các nước ra quy định làm nên các rào
chắn ngang cách hai thế giới hay cụ thể hơn, các sàn giao dịch tiền mã hóa cứ
mua bán với nhau thoải mái nhưng không được đổi từ tiền mã hóa ra tiền thật.
Kể cũng lạ, những người cổ súy cho các đồng tiền mã hóa như
bitcoin đều nhấn mạnh đến sự yếu kém của đồng tiền truyền thống như bị nhà nước
kiểm soát, giao dịch tốt kém, thế tại sao họ không dùng các đồng tiền đã được
sinh ra khá nhiều rồi đấy để mua bán với nhau, đừng dính líu gì đến đô-la Mỹ
hay euro hay bảng Anh nữa. Và kể cũng lạ, các đồng tiền mã hóa thay nhau ra đời
nhưng hình như chỉ để trao đổi với đô-la Mỹ để tự khen nhau khi so sánh giá tăng
lên vùn vụt với các đồng tiền truyền thống. Nếu không so sánh làm sao biết giá
trị thật của bitcoin là bao nhiêu khi rất hiếm khi đồng tiền này được sử dụng để
đi chợ, mua hàng.
Có thể đoan chắc nếu buộc người đầu tư vào các đồng tiền mã
hóa chỉ được dùng tiền thật để mua chứ không được dùng đồng tiền mã hóa để bán
rồi mua lại tiền thật, tức chỉ có vào chứ không có ra thị trường này sẽ sớm xẹp
như bóng xì hơi.
* * *
Hiện nay chính sách của các nước đang đi theo hướng này, hoặc
cấm hoặc cảnh báo các hoạt động giao dịch tiền mã hóa và các loại token không
được xem chúng là tiền. Mua bán các NFT để sau này trong thế giới ảo người sở hữu
có thể hãnh diện khoe họ là chủ thì bình thường nhưng tạo sàn giao dịch rồi cho
đổi từ tiền mã hóa sang tiền thật là bị cấm. Binance, sàn giao dịch tiền mã hóa
lớn nhất thế giới đã bị như thế ở Anh, Italia, Đức, Hà Lan, Nhật Bản, Trung Quốc…
Cách tiếp cận của Mỹ là bảo vệ nhà đầu tư, tức người dân nước
họ khi bỏ tiền vào mua các loại tiền mã hóa. Vì thế giới quản lý nước này buộc
các sàn kê khai cụ thể như ví tiền mã hóa của khách để ở đâu, dữ liệu giao dịch
lưu ở nước nào, ai chịu trách nhiệm mỗi khi có kiện tụng xảy ra. Đặc biệt Cục dự
trữ liên bang nước này (Fed) rất quan tâm đến đồng stablecoin, tức đồng tiền mã
hóa gắn chặt giá trị với đô-la Mỹ bởi như thế là làm loãng khả năng điều hành
tiền tệ của họ.
Châu Âu cũng đang soạn luật để quản lý thị trường tiền mã
hóa, trong đó sẽ cấm các đồng tiền stablecoin trả lãi và lưu hành. Nhiều nhà
làm luật kêu gọi phải soạn quy định nhanh lên trước khi các stablecoin lấn sâu
vào thị trường tiền tệ làm một tỷ lệ lớn không nằm trong sự kiểm soát của chính
quyền các nước. Nhưng ưu tiên của châu Âu hiện nay là ngăn chặn việc sử dụng tiền
mã hóa để rửa tiền và tài trợ cho khủng bố.
Tuy nhiên, có nước xua đuổi thì cũng có nước mời gọi tiền mã
hóa vào nước họ đầu tư. Chẳng hạn, theo tờ New York Times, Ukraine đang cố gắng
trở thành “thủ đô” của tiền mã hóa; tháng 9 vừa rồi mới thông qua luật hợp pháp
hóa bitcoin. Chính phủ nước này đang đưa ra nhiều ưu đãi để lôi kéo các doanh
nghiệp chuyên về tiền mã hóa dọn về đây như một phương cách thúc đẩy nền kinh tế
và xây dựng lại hình ảnh một đất nước từng chịu tai tiếng về tham nhũng, tai tiếng
tài chính.
Vấn đề nằm ở chỗ các doanh nhân công nghệ nếu có dồn về Ukraine
là do các yếu kém của nước này để họ rảnh tay suy nghĩ đủ loại sản phẩm nhằm
hút tiền của thiên hạ. Giới quản lý tài chính Ukraine càng ít biết về họ, càng
không hiểu gì về sản phẩm họ chào bán, càng mơ hồ về tình hình tài chính của họ,
các công ty này càng mừng. Âu đó cũng là mâu thuẫn của cái thế giới ảo khi hết
lời ca tụng về các đồng tiền mã hóa nhưng khi có lãi lại đổi ra tiền đô-la hay
euro để có tiền thật cầm trong tay mới mua được du thuyền hay máy bay riêng.
Lại thêm… Web3
Lại thêm… Web3
Nghĩ cũng vất vả cho những người muốn bám theo các chuyển động
công nghệ, hết “dữ liệu lớn” đến “học máy”, hết “trí tuệ nhân tạo” đến “công
nghệ 4.0”. Nay thêm một khái niệm mới đang trở nên thời thượng, chưa biết sẽ mở
ra một giai đoạn mới của Internet hay chỉ là một cơn sốt chóng qua – đó là Web3.
Các đời Web
Web 1.0 là các trang web tĩnh, chỉ hiển thị văn bản, chữ
không là chữ vì ảnh được dùng hạn chế; càng nhiều ảnh, tốc độ tải về càng chậm,
có lúc sau khi gõ địa chỉ phải chờ một lúc sau toàn bộ trang mới hiện lên màn
hình. Lúc đó bấm vào đường dẫn, máy tự động chuyển chúng ta sang trang khác đã
là một sự diệu kỳ. Với Web 1.0 chèn video là điều xa xỉ, ít ai làm. Thông tin
chỉ đi một chiều từ web đến người xem.
Đến đầu thế kỷ này, Web 2.0 thay chân Web 1.0 để biến
Internet thành một thế giới động, có tương tác hai chiều, có hình ảnh, video đủ
cả. Cứ nhìn vào những gì Gmail có thể làm được trên nền tảng web mới thấy Web 2.0
đã đi rất xa so với Web 1.0. Hiện nay người dùng vào Facebook, tương tác đủ kiểu,
từ bấm “like” đến gõ nhận xét, từ tạo ra một mẩu chuyện mới đến phát video trực
tuyến cho cả ngàn người xem. Đó chính là Web 2.0. Cần lưu ý người ta dùng Web
2.0 nhưng không chỉ trình duyệt dùng trên máy tính mà còn các ứng dụng trên điện
thoại di động và các thiết bị khác.
Nay, theo nhận định của một số tên tuổi lớn trong ngành công
nghệ, giai đoạn Web3 đã bắt đầu, dù mới manh nha nhưng, theo họ, sẽ thay đổi tận
gốc rễ cách con người sử dụng Internet. Web3 có thật hay không, bao giờ nó phổ
biến hay Web3 chỉ là cách truyền bá cho các loại tiền mã hóa, cho giới mua bán NFT
dụ dỗ người mới – đến nay vẫn chưa có câu trả lời dứt khoát.
Dù có nhiều người hình dung Web3 theo những cách khác nhau, cái
nguyên lý ai nấy đều đồng ý là Web3 khác các đời web trước ở chỗ “phi tập
trung”. Cả tỷ người dùng phải dựa vào Google để tìm kiếm thông tin, nhận, gởi
email; dựa vào Facebook để duy trì liên lạc với bạn bè; vào Spotify để nghe nhạc;
vào Netflix để xem phim. Các nơi này đóng vai một trung tâm, một đầu mối để các
bên gặp nhau mà giao dịch như ca sĩ gặp người nghe, diễn viên gặp người xem,
nhà quảng cáo gặp khách tiêu dùng. Đó là tính chất tập trung của Web 2.0. Với
Web 3.0 thì ngược lại vì thế thay cho các app (ứng dụng) trên Web3 sẽ là các
dApp (ứng dụng phi tập trung).
Người ta kỳ vọng Web3 (cũng lạ hầu hết đều viết là Web3 chứ
không phải Web 3.0) sẽ loại bỏ các tổ chức trung gian hiện đang ăn một phần rất
lớn doanh thu cho các bên tạo ra. Trên lý thuyết Web3 sẽ giúp ca sĩ tiếp cận trực
tiếp với người nghe, nhận thù lao thẳng, không chia hoa hồng cho ai. Web3 chia
tiền quảng cáo cho người dùng Facebook chứ không để nơi này hưởng trọn như bây
giờ. Nói cách khác Web3 là một nền tảng “dân chủ hóa” Internet, đưa nó về lại với
các ý tưởng nguyên thủy, ai nấy bình đẳng như nhau, không chịu lệ thuộc vào các
ông lớn công nghệ.
Nhiên liệu
của Web3
Để thực hiện nguyên lý “phi tập trung”, các máy tính kết nối
với nhau đều ngang hàng, Web3 phải dựa vào công nghệ blockchain. Nghe đến đây sẽ
có nhiều người nản vì đụng phải khái niệm “chuỗi khối” mà họ đã ghét hay bó tay
không thể hiểu. Cứ hình dung mỗi máy tính là một khối, liên kết với nhau một
cách chặt chẽ thành chuỗi để duy trì một cuốn sổ cái, máy nào cũng như nhau, ai
ghi thêm gì vào đều phải được toàn bộ các máy trong chuỗi chấp nhận. Vì thế cuốn
sổ cái này ai cũng truy cập được nhưng không thể một ai tự mình sửa chữa thông
tin.
Như vậy sau này dùng Web3 để mua hàng, nghe nhạc, coi phim, chơi
game, tham gia mạng xã hội… tất cả đều sử dụng công nghệ blockchain, về lý thuyết
sẽ tạo ra các mối liên kết, dù đó là để trả tiền, nhận tiền, đăng nội dung, tải
nhạc… Không có máy chủ, không có tổ chức đầu mối mang tính tập trung – tức
không có Mark Zuckerberg phán bạn viết như thế này là vi phạm tiêu chuẩn cộng đồng
rồi, phải xóa thôi. Còn nền tảng kỹ thuật của Web3 phải như thế nào để giải quyết
hàng loạt các vấn đề như vận hành blockchain cần nguồn năng lượng lớn, phí
“xăng nhớt” duy trì blockchain cao, ai đứng ra phân xử nếu có tranh chấp, làm
sao ngăn ngừa đạo nhạc, đạo phim, thậm chí lừa đảo lấy hết hàng hóa… thì chịu,
chưa có tài liệu nào về Web3 nói cho cặn kẽ.
Hiện nay các nơi ứng dụng Web3 ở mức sơ khai thì tặng người
dùng các token như các đồng xu ảo sau này sẽ dùng vào nhiều việc như tiền để trả
dịch vụ đọc báo hay phiếu bầu để quyết định một số vấn đề được đưa ra để trưng
cầu. Có lẽ các bạn đã nghe nói đến NFT – tức một mã chứng nhận quyền sở hữu trên
thế giới ảo một tài sản nào đó. Thị trường mua bán NFT đang được tiến hành trên
Web3, thật ra là một tiện ích mở rộng của các trình duyệt Chrome hay Firefox,
được biến thành ví điện tử chứa tiền mã hóa hay sản phẩm NFT. Các sàn giao dịch
tiền mã hóa phi tập trung, tức không có công ty nào đứng ra làm chủ xị, không
có con người điều hành, tất cả tiến hành giao dịch với nhau một cách tự động
thông qua các hợp đồng thông minh cũng là một dạng Web3.
Hoài nghi
và kỳ vọng
Mặc dù hầu hết giới công nghệ đều thừa nhận blockchain sẽ có
nhiều ứng dụng thú vị trong tương lai chứ không chỉ dùng để quản lý tiền mã hóa
như Bitcoin hay Ether nhưng cũng không ít người cho rằng khái niệm Web3 hiện
đang được thổi phồng quá đáng, đặc biệt là việc mua bán NFT tiền triệu, tiền tỷ.
Một điều lạ mà nhân loại nhiều lần chứng kiến, hễ đẻ ra một thứ công nghệ mới,
y như rằng một thời gian ngắn sau sẽ có kẻ tận dụng nó để làm điều xấu như máy
tính và virus, tiền mã hóa và lừa đảo đầu tư đa cấp…
Web3 vận hành trên blockchain hay trên các hợp đồng thông
minh – mà những thứ này do con người soạn ra nên nó có bảo đảm an toàn hay
không tùy thuộc vào tay nghề và đạo đức của người lập trình. Hai bên giao dịch
với nhau bằng một hợp đồng thông minh nhưng một bên cố ý cài cắm các điều khoản
gài bẫy bên kia, nếu không phát hiện mà cứ ký, dù “thông minh” vẫn xảy ra khả
năng bị lừa.
Ở hướng kỳ vọng, người ta mong Web3 sẽ phá vỡ thế độc quyền của
các đại gia công nghệ, từ Google đến Apple, từ Facebook đến Twitter… Thử nghĩ
mà xem, hiện nay có ai đủ khả năng tạo ra một mạng xã hội khác để cạnh tranh với
Facebook, nó quá lớn, số người dùng áp đảo nên hàng loạt mạng tìm cách ngoi lên
nhưng không cạnh tranh nổi. Ai có thể xây một ngôi nhà chứa các ứng dụng trên
điện thoại di động để người dùng vào tải về, trừ phi phải khép mình núp bóng
vào App Store hay Google Play. Nếu Web3 thành công, sẽ có hàng loạt Facebook mới
ra đời do người dùng xây dựng nên và tự họ quản lý.
Nhưng mới tuần trước hai nhân vật nổi
tiếng trong làng công nghệ đã lên tiếng chê bai Web3. Cựu giám đốc điều hành
Twitter là Jack Dorsey cho rằng Web3 nếu
vận hành cũng sẽ nằm dưới quyền kiểm soát của các quỹ đầu tư mạo hiểm. Ông viết
trên Twitter: “Bạn không sở hữu được Web3 đâu. Các quỹ đầu tư mạo hiểm và đối
tác nắm hết. Web3 sẽ không bao giờ thoát được vòng kềm tỏa của họ. Suy cho cùng
nó sẽ là một hình thái tập trung với một cái nhãn khác mà thôi”. Elon Musk, ông
chủ hãng Tesla thì nói Web3 là một từ marketing kêu rổn rảng hơn là một thực tế.
Cũng trên Twitter, ông này viết: “Có ai thấy Web3 đâu không? Tôi không tìm ra
nó”.
Nói tóm lại, Web3 hiện giờ mới chỉ ở mức “tiềm năng to lớn”,
trên đó có cả những người say mê xây dựng các nền tảng cho nó, cũng có người
săm soi các khe hở để lừa đảo làm giàu và nhiều nhất là giới kinh doanh đang
thích nghi với nó để soạn các lời có cánh, chiêu dụ đủ loại khách hàng tham gia
kẻo lỡ cơ hội. Người bình tĩnh chỉ cần nhớ khái niệm blockchain được rao giảng
cả chục năm nay, thử hỏi nó đã được ứng dụng vào việc gì thật sự có ích chưa,
ngoại trừ quản lý tiền mã hóa và các loại NFT? “Phi tập trung” đồng nghĩa 10
người 10 ý, rất khó để những con người say mê ý tưởng “phi tập trung” ngồi lại
với nhau để xây dựng các chuẩn mực cho thế giới Web3 này.
Box
Cách những người
nổi tiếng đang tận dụng Web3
Michael Jordan, cầu thủ bóng rổ nổi tiếng cùng con trai là
Jeffrey Jordan vừa thành lập công ty Heir để kết nối các danh thủ thể thao với
người hâm mộ thông qua Web3. Bỏ ra các ngôn ngữ có cánh thường thấy trong các
thông cáo báo chí, có thể thấy Heir sẽ làm một ứng dụng HEIR để phân phối một
token xây dựng trên công nghệ chuỗi khối Solana. Trên nền tảng này các vận động
viên và người hâm mộ có thể gặp nhau, dùng token này để mua đồ lưu niệm, xem
video độc quyền, mua ảnh có chữ ký… Chưa biết ứng dụng này có thành công hay
không vì năm 2022 mới ra mắt nhưng về nguyên tắc, vẫn chưa “phi tập trung” hẳn vì
các bên còn dựa vào một công ty điều hành làm trung gian là Heir của gia đình
Jordan.
Tayor Swift
Nàng không thích thì nàng làm lại!
Có nhiều người ngạc nhiên khi thấy báo chí âm nhạc giới thiệu
album “Red” của Taylor Swift như thể đây là một album mới trong khi “Red” ra đời
cách đây đã 9 năm. Cái báo chí nói là “Red” phiên bản mới, “Taylor’s Version” –
là cách ca sĩ này chống lại các hãng băng đĩa, giành quyền sở hữu các đứa con
tinh thần về lại cho mình.
Số là vào năm 2004 lúc này Taylor Swift mới 15 tuổi, một ca
sĩ chưa có album nào nhưng đã bắt đầu nổi tiếng với cây đàn ghitar và mái tóc
vàng hoe, cô ký hợp đồng độc quyền với Big Machine Records. Cũng như các hợp đồng
lúc đó, hãng ghi âm sở hữu các đĩa gốc, ca sĩ chỉ hưởng tỷ lệ phần trăm ăn
chia. Với các đĩa master này hãng ghi âm hưởng phần lớn lợi nhuận từ bán CD, đĩa
nhựa, kể cả sau này khi đưa lên các dịch vụ streaming như Spotify hay Apple
Music, tiền cũng chảy về Big Machine Records phần lớn rồi sau đó nơi này mới
chia lại cho Taylor Swift theo thỏa thuận ban đầu. Đổi lại hãng phải đầu tư mọi
chi phí sản xuất rồi chi phí quảng bá cho tên tuổi ca sĩ trong khi chưa biết có
thành công hay không.
Cả sáu album đưa tên tuổi của Taylor Swift lên thành một ca
sĩ nổi danh khắp thế giới đều được sản xuất theo cách này (gồm Taylor Swift -
2006, Fearless - 2008, Speak Now - 2010, Red - 2012, 1989 - 2014, và Reputation
- 2017) với hàng chục triệu album được bán ra. Hợp đồng kéo dài 13 năm đến năm
2018 Taylor Swift mới được “tự do” để chuyển sang ký với hãng Republic Records
của Universal. Lúc này cô mới có thể đặt điều kiện bản master tương lai thuộc
quyền sở hữu của cô và có lẽ cô đành chịu thua với các bản master của 6 album
cũ.
Nhưng đến tháng 6-2019, hãng Big Machine Records bán mình
cho Scooter Braun và sau đó ông này bán các bản master của Taylor Swift cho một
hãng khác, Shamrock Holdings lấy 300 triệu đô-la nhưng vẫn được chia doanh thu từ
các bài hát của Swift trong tương lai. Vấn đề nằm ở chỗ Scooter Braun là một
nhà quản lý âm nhạc, từng làm quản lý cho Kanye West mà West và Swift từng đụng
độ ầm ĩ trên sân khấu. Năm 2009 lúc MTV trao giải cho nữ ca sĩ hay nhất cho
Taylor Swift thì Kanye West nhảy lên sân khấu giật micro Swift đang cầm lớn tiếng
nói video Single Ladies của ca sĩ Beyonce mới hay hơn, xứng đáng được giải hơn.
Sau đó một thời gian dài hai bên cứ gấu ó nhau miết.
Thế là Taylor Swift lên án vụ bán đĩa master của cô, thề sẽ
ghi âm lại hết cả 6 album để trả đũa. Ngay vào hôm Scooter Braun trở thành chủ
nhân mới các đĩa master của mình, Taylor Swift viết trên Tumblr: “Tôi cứ bị ám ảnh
bởi cảnh bắt nạt không ngưng tôi phải chịu đựng từ anh ta trong nhiều năm qua. Di
sản âm nhạc của tôi nay lại nằm trong tay kẻ muốn hủy hoại nó. Đây là kịch bản
tồi tệ nhất có thể hình dung”. Swift cho biết đã thương lượng với Braun để mua
lại nhưng không thành.
Nói về lý, dù Taylor Swift không sở hữu các đĩa gốc nhưng cô
vẫn còn quyền xuất bản nhạc do cô sáng tác và biểu diễn cũng như quyền ghi âm phiên
bản mới 2 năm sau khi hết hạn hợp đồng ký với Big Machine Records. Dĩ nhiên Shamrock
Holdings vẫn sở hữu bản master cũ như album Red nguyên thủy nhưng nay Taylor
Swift sở hữu album Red mới – Red Taylor’s Version. Người vào Spotify nghe, nếu
chọn Red cũ thì tiền về tay Shamrock, nếu nghe Red mới thì tiền về túi Taylor. Cho
đến nay cô đã phát hành 2 album làm lại, Fearless (Taylor’s Version) hồi tháng
4 và Red (Taylor’s Version) vào đầu tháng 11 này.
Phóng viên cũng như người hâm mộ cố ý nghe kỹ để phân biệt
giữa hai phiên bản nhưng đa phần không thấy gì khác biệt. Taylor Swift cố ý giữ
nguyên giai điệu, lời nhạc và hòa âm phối khí để trung thành với bản gốc càng gần
càng tốt. Các phiên bản mới có thêm các bài bonus để tặng thêm người nghe. Red
bản gốc bán được 1,2 triệu bản ngay trong tuần đầu tiên và tính đến tháng
10-2020 chỉ riêng ở Mỹ Red bán được 4,49 triệu bản, còn tính cả trên thế giới
có chừng 8 triệu bản được bán ra. Red bản mới bán được nửa triệu bản trong tuần
đầu tiên, trong đó có hơn 100.000 đĩa than. Nhưng ngày nay thiên hạ chủ yếu
nghe nhạc “stream” chứ ít mua CD – ngay trong ngày đầu tiên Red phiên bản
Taylor được đưa lên Spotify, đã có 122,9 triệu lượt nghe nhạc của cô, trong đó
ba phần tư là từ album Red mới. Chỉ cần 4 ngày lượt người nghe bản mới đã vượt
bản cũ trên Spotify mặc dù Red cũ đã có sẵn trong playlist của nhiều người.
Theo Forbes, tài sản
của Taylor Swift cho đến nay đã lên đến 550 triệu đô-la từ nhạc, bản quyền
streaming, các chuyến lưu diễn. Chỉ tính riêng năm 2019 cô đã làm ra đến 185
triệu đô-la, cao nhất trong các nhân vật nổi tiếng, kể cả diễn viên điện ảnh. Về
mặt kinh doanh, cô không phải là người dễ bị bắt nạt. Lúc album “1989” của cô
ra mắt, cô và hãng ghi âm yêu cầu Spotify chỉ cho người nghe có đăng ký trả tiền
mới được truy cập album này nhưng Spotify từ chối (dịch vụ này vừa cho nghe miễn
phí kèm quảng cáo và bán tài khoản có trả tiền, nghe không bị chêm quảng cáo;
tiền chia cho ca sĩ cũng bên ít bên nhiều). Thế là Swift rút toàn bộ nhạc của
cô ra khỏi nền tảng Spotify rồi lên Wall
Street Journal viết bài ý kiến nêu rõ quan điểm “âm nhạc không thể miễn
phí”.
Sau khi dùng mạng xã hội vận động người hâm mộ gây sức ép buộc
Swift đưa nhạc về lại không thành công, Spotify phải nhượng bộ, nâng tiền bản
quyền chia cho hãng ghi âm, Swift theo yêu cầu mới được quyền sử dụng kho nhạc
của cô như cũ. Ngay cả với Apple Music lúc mới ra mắt dự định cho người dùng
nghe miễn phí ba tháng nên sẽ không trả tiền bản quyền trong ba tháng đó.
Taylor Swift phản đối và Apple phải nhượng bộ, đồng ý trả đầy đủ ngay từ đầu.
Nay với cú “ta không thích thì ta làm lại” này của cô, giới
nghệ sĩ và giới kinh doanh âm nhạc rúng động. Trước đây hàng loạt ca sĩ từng
bày tỏ sự bức xúc trước các điều khoản ràng buộc của các hãng ghi âm nhưng ít
ai chịu bỏ công ghi âm lại các album cũ của mình như Taylor Swift, cũng nhờ
nguyên một năm không lưu diễn, tránh đại dịch nên có thời gian. Biết đâu cô sẽ
là người tiên phong cho một phong trào làm lại bản master mới của nhiều ca sĩ. Và
như thế bên thua thiệt là các hãng ghi âm vì phần lớn trường hợp phải chấp nhận
rủi ro khi đầu tư vào những tên tuổi chưa biết có thành danh hay không. Họ đòi
sở hữu các bản master là để phần nào bù đắp các rủi ro đó.
Theo số liệu trên tờ Wall
Street Journal, thông thường hãng ghi âm hưởng đến 80% doanh thu được chia
từ các nền tảng streaming, 20% chia cho ca sĩ. Nhưng nếu ca sĩ nắm quyền sở hữu
và khai thác bản master, họ sẽ hưởng từ 80% đến 95% doanh thu.
Hiện nay các hãng ghi âm tìm cách phòng ngừa các trường hợp
như Taylor Swift như hãng Universal tăng gấp đôi thời gian nghệ sĩ không được
ghi âm lại các bản nhạc cũ. Các thỏa thuận tiêu chuẩn trước đây thường là hạn
chế ca sĩ ghi âm lại các bản nhạc cũ trong vòng 5 năm sau khi thực hiện bản gốc
hay 2 năm sau khi hết hạn hợp đồng. Thời hạn mới của hãng Universal đưa ra lần
lượt là 7 năm và 5 năm.
Trước khi có các dịch vụ nghe nhạc trực tuyến như Spotify
hay Tidal, các hãng ghi âm không sợ lắm khả năng nghệ sĩ trở chứng ghi âm lại
các bản master họ đang nắm giữ vì chi phí tổ chức thu đĩa không phải là nhỏ và ghi
xong rồi phát hành cũng không phải là chuyện đơn giản. Nay chuyện ghi âm dễ như
không rồi các kênh phát hành nhạc có sẵn khắp nơi, kể cả trên YouTube. Vai trò
các hãng ghi âm ngày càng nhỏ đi và doanh thu vì thế cũng teo tóp lại – ngày
càng nhiều nghệ sĩ đòi sở hữu bản master. Dĩ nhiên tăng thời gian độc quyền thì
đổi lại Universal phải tăng tỷ lệ chi trả cho nghệ sĩ.
Đó là chưa kể các nền tảng phi tập trung mới trong thế giới giao
dịch trên blockchain có thể cho phép ca sĩ bán nhạc trực tiếp cho người nghe
không cần qua trung gian như Apple Music – lúc đó không chỉ các hãng ghi âm phải
lụi tàn mà Spotify cũng không còn gì để chào bán.
Mọi chuyện có thể thương lượng – trừ tình yêu
Điểm bất thường
Bản thân cuốn “L’Anomalie” của nhà văn người Pháp, Hervé Le
Tellier là một điểm bất thường: ông từng viết hơn 20 cuốn tiểu thuyết nhưng
chưa có cuốn nào lọt vào danh sách bán chạy, mãi cho đến cuốn này. Xuất bản bằng
tiếng Pháp vào giữa năm ngoái, “L’Anomalie” nhanh chóng bán được hơn 1 triệu cuốn
– một kỷ lục chưa từng thấy tại Pháp trong mấy chục năm qua. Sách được trao giải
Goncourt năm 2020 và tháng rồi đã được dịch sang tiếng Anh với tựa đề “The
Anomaly”.
Điểm bất thường ở đây là chuyến bay Air France 006 từ Paris
đến New York ngày 10 tháng 3 năm 2021 bị rơi vào vùng thời tiết xấu, máy bay chao
đảo, có lúc rơi tự do nhưng cuối cùng cũng hạ cánh an toàn. Một trăm linh sáu
ngày sau, cùng chuyến bay Air France 006 đó, cũng trên lộ trình Paris đến New
York, cũng bay bằng máy bay Boeing 787, cũng hai viên phi công và 230 hành
khách đến sợi tóc, lông chân không khác gì chuyến bay trước… lại rơi vào vùng
thời tiết xấu, máy bay quăng quật một lúc, phát tín hiệu cấp cứu và sau đó hạ
cánh. Thế là thế giới rơi vào tình huống kinh khủng: có mấy trăm bản sao những
con người cụ thể đang song song tồn tại trên thế giới này; chỉ khác nhau ở hơn
ba tháng ký ức một bên có một bên không.
“The Anomaly” không bắt đầu ngay bằng câu chuyện khoa học viễn
tưởng như thế. Tác giả nhẩn nha mỗi chương viết về một nhân vật trên chuyến bay
này: từ tay sát thủ chuyên thực hiện các hợp đồng giết mướn đến ông nhà văn
thành công hơn trong nghề dịch sách; từ viên phi công sau khi hạ cánh phát hiện
mình bị ung thư giai đoạn cuối đến anh chàng ca sĩ đồng tính người Nigeria… Điểm
chung duy nhất của các nhân vật này là đi trên chuyến bay 006 định mệnh.
Xin bạn đọc thứ lỗi vì người viết đã tiết lộ một phần cốt
truyện nhưng chỉ là một phần rất nhỏ - câu chuyện sau khi phát hiện chuyến bay
006 bỗng dưng tạo ra thêm một bản sao y chang mới là phần chính. Các nhân vật trên
chuyến bay nghĩ gì khi biết có thêm một bản sao của chính mình đang tồn tại, hiện
đang ăn ngủ chơi đùa với vợ con mình? Ghen tức, tranh giành hay đồng cảm, thú vị
quan sát? Những người chung quanh sẽ phản ứng như thế nào, chọn ai là người thật,
ai là bản sao? Bạn bè sẽ chơi với ai, e dè ai? Luật pháp sẽ thừa nhận người
trên chuyến bay trước hay chuyến bay sau, ai có quyền sở hữu nhà, nhận tiền
lương hay bị vào tù vì phạm tội?
Giả thử cuộc đời này là một không gian giả lập do con cháu
chúng ta vài ngàn năm nữa dựng lên trong các hệ thống máy tính siêu mạnh của
chúng, rất có thể chương trình bị một lỗi nhỏ, một chuyến bay bỗng dưng tách
làm hai bản sao, hạ cánh cách nhau 106 ngày. Nếu vậy cách xử lý hay nhất là gì?
Tiếp tục cho mấy trăm con người giống nhau đến tận các DNA va chạm nhau với đủ
thứ rắc rối từ đạo đức đến luân lý đến luật lệ hay cứ “delete” bớt một bản sao
như có người đề nghị với Tổng thống Mỹ sau khi hiểu sự tình?
Đến đây bạn đọc có thể hình dung ra sức hút của “The
Anomaly”, mở đầu như một tiểu thuyết hình sự với một nhân vật giết thuê rồi
chuyển sang truyện tình cảm khi miêu tả cuộc tình lãnh mạn. Sau khi để lộ ra
đây có thể là một cuốn khoa học giả tưởng kiểu như phim “The Matrix” sách nhanh
chóng chuyển qua dạng triết học với những câu hỏi không dễ trả lời. Như nhân vật
nữ luật sư có thai trong thời gian ba tháng bản sao của cô chưa xuất hiện – đối
diện với chọn lựa ai phải ra đi, người nữ luật sư tháng Sáu nhường cuộc sống có
chồng, có sự nghiệp cho nữ luật sư tháng Ba vì cái thai mà cô không có. Như nhà
văn tháng Ba sau chuyến bay bổng lên tay, viết một tác phẩm bán chạy cả triệu bản
nhưng cuối cùng đi tìm cái chết không ai hiểu vì sao. Nhà văn tháng Sáu bỗng
dưng nổi tiếng vì một tác phẩm đọc thì đúng là giọng điệu của mình như không phải
do mình viết ra – nay có nhận không, có hưởng vinh quang đó không!
Có lẽ dân Pháp tìm đọc cuốn “L’Anomalie” bởi khung cảnh bị
cách ly với bên ngoài trong suốt một thời gian dài chống dịch Covid-19, họ tìm
thấy sự đồng cảm như thể đang sống trong một thế giới giả lập. Khó lòng tin được
thực tế đường phố Paris đông đúc tấp nập nay vắng hoe không một bóng người. Chấp
nhận giả thuyết giả lập còn dễ hơn chuyện thừa nhận phải làm việc từ nhà, con
cái học trên các lớp ảo, gặp người thân qua màn hình máy tính, mọi việc ngưng đọng
lại vì một con virus không ai tường mặt…
Có người bảo thế giới này đúng là giả lập; chứ làm sao giải
thích được cho đến nay vẫn có người tin trái đất phẳng, có người tranh nhau mua
các tác phẩm ảo giá cả triệu đô-la. Không giả lập sao được khi ông chủ Facebook
Mark Zuckerberg chỉ vừa tuyên bố đổi tên công ty thành Meta để xây dựng một đa
vũ trụ Metaverse, người ta bắt đầu tranh nhau mua bán địa ốc ảo, tài sản áo, kể
cả giày Nike ảo để sau này đem ra xài trên thế giới Metaverse kia. Chỉ là do một
tay lập trình nào đó 1.000 năm sau tinh nghịch chế ra chứ làm sao thiên hạ có
thể tin vào những chuyện điên rồ thế kia.
Trả lời phỏng vấn của báo chí, nhà văn 64 tuổi nói: “Tôi ngạc
nhiên vì sự thành công của cuốn sách, nhất là khi nó mang tính thử nghiệm, rất
kỳ quái và hơi điên một chút”. Ông nói thêm: “Có lẽ đọc nó là phương cách trốn khỏi
thực tế chăng”. Le Tellier cho biết ông bị cuốn hút vào ý tưởng bản sao con người:
“Thật thú vị nếu về nhà tôi thấy một bản sao chính tôi đang ngồi chờ ở đấy. Tôi
sẽ phản ứng như thế nào đây?” Thế là ông bỏ ra một năm để viết cuốn “Điểm bất
thường”, thỉnh thoảng lại đem chính mình ra diễu nhại bằng một nhân vật nhà văn
giống như ông.
Cách các nhà văn thường dùng khi viết tiểu thuyết là sáng tạo
ra các nhân vật rồi đẩy nhân vật vào các hoàn cảnh có gút thắt để làm họ sống như
thật. Ở đây Le Tellier làm ngược lại: dựng ra một bối cảnh kỳ dị trước rồi thả
vào đó bảy tám nhân vật sẽ bị hoàn cảnh buộc phải có những ứng xử bất thường. Như
khi được giải thích một trong những giả thuyết giải thích trường hợp kỳ lạ của
chuyến bay 006, Tổng thống Mỹ giận dữ đáp: “Những gì ông miêu tả thật quái đản.
Tôi không thể nào là một chú Super Mario (nhân vật trong trò chơi hái nấm) và
chắc chắn tôi sẽ không đứng ra giải thích cho dân Mỹ rằng họ chỉ là những
chương trình máy tính trong một thế giới ảo”.
Để chuyện thật, ảo chuyện giả lập sang một bên, cuốn tiểu
thuyết buộc người đọc phải trả lời một câu hỏi như cách tác giả đặt vấn đề: “Rốt
cuộc, câu hỏi mấu chốt cho mọi nhân vật, câu hỏi duy nhất là, tôi sẽ làm gì với
tình yêu của tôi?”. Le Tellier nói với báo chí: “Tình yêu là điểm khi mọi nhân
vật sẽ chao đảo, nơi họ mềm yếu và nơi họ phải quyết định. Với mọi thứ khác, họ
có thể thương lượng. Tình yêu đi liền với sự chiếm hữu; khi một biến thành hai,
mọi chuyện trở nên phức tạp”. Đúng là mọi chuyện có thể thương lượng – trừ tình
yêu.
-
AI – cường điệu và thực tế Nguyễn Vạn Phú Bạn đôi lúc có cảm giác hơi hơi mặc cảm vì chung quanh đọc đâu cũng thấy bàn về AI (trí tuệ ...
-
“Đơn vị sự nghiệp công lập có thu” là cái chi chi? Khi Bộ Tài chính công bố “Quy chế thí điểm chuyển đơn vị sự nghiệp công lập có thu thàn...
-
Đấu giá ngược Phiên đấu thầu bán vàng miếng đầu tiên của Ngân hàng Nhà nước tổ chức hôm qua bị các báo sáng nay phê phán dữ quá. Báo T...